TRAN XUAN AN - TIEU SU BN. PCDT. NGUYEN VAN TUONG [ 1 ]

Cuốn sách này, tác giả biên soạn để làm sách dẫn, phục vụ việc nghiên cứu "Đại Nam thực lục chính biên (IV, V, VI)"; đồng thời, đây cũng là đề cương chi tiết của bộ truyện - sử kí - khảo cứu tư liệu lịch sử của tác giả: "Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 - 1886)" (NXB. Văn Nghệ TP. HCM., 2004). Trần Xuân An.

7.2.06

TIỂU SỬ BIÊN NIÊN KÌ VĨ PCĐT. NGUYỄN VĂN TƯỜNG (tệp 5)

TRẦN XUÂN AN
(biên soạn)

TIỂU SỬ BIÊN NIÊN
KÌ VĨ PHỤ CHÍNH ĐẠI THẦN
NGUYỄN VĂN TƯỜNG
(1824 – 1886)

(tiếp theo)
(Tệp 5)
(chương sáu / phần 1)


E. CHƯƠNG SÁU

XII. THỜI LÀM THƯỢNG THƯ BỘ HÌNH, ĐẠI THẦN VIỆN CƠ MẬT – THƯƠNG BẠC VỚI TƯỚC HIỆU KÌ VĨ BÁ, ĐỒNG KIÊM SUNG ĐẠI THẦN NHA THƯƠNG BẠC

+++ Tháng mười âl.
(tiếp theo).
++ Nguyễn Tư Giản: kiêm sung Nha Thương bạc. Nguyễn Tư Giản dâng sớ xin từ chối. Vua cho rằng, về khoa ngôn ngữ, Nguyễn Tư Giản hình như chưa giỏi bằng Nguyễn Văn Tường; Nguyễn Văn Tường vốn đã am hiểu, thông thạo (đi sứ, giao tiếp với Tây, với tướng nhà Thanh từ tháng 12 âl., Đinh mão [1867 --> "68 (*)] đến nay), do đó không lãnh chức ở Thương chính cũng lãnh chức của Thương bạc. Vua buộc Nguyễn Văn Tường phải nghe lệnh, Nguyễn Tư Giản cũng không được từ chối, vì cả hai đều muốn khước từ.
(sđd., tr. 126 – 127).
---- (*) Như đã chú thích phía trước, người biên soạn (Trần Xuân An) xin đề nghị quy ước: 1867 --> “68, có nghĩa là khoảng cuối năm 1867, đầu năm 1868. ----
+++ Tháng mười một âl..
++ Quan Thương bạc đưa thư cho tướng Pháp ở Gia Định, nhờ mua tàu thủy đánh giặc biển.
(sđd., tr. 127).
++ Phạm Phú Thứ về quê thăm, nay dẫn Ông Ích Khiêm cùng ra Huế, xin vua cho Ông Ích Khiêm ra Hải – Yên làm việc với Phạm Phú Thứ, vì Ông Ích Khiêm đã khỏi bệnh tâm hỏa…
(sđd., tr. 128 – 129).
++ Người Pháp cho rằng được tặng trâu, dê là bị khinh. Cơ mật viện – Thương bạc xin vua đổi tặng ngựa thổ ngơi.
(sđd., tr. 129).
++ Vua dụ về việc lập vua nối ngôi về sau cho ba hoàng tử được chọn, trong đó có câu: “bóng câu không lường được thì tất chỉ người hiền là cho [được kế vị], vì thiên hạ được người [hiền] là khó” “giao cho Sử quán làm án nhất định, sau có nịnh hót, mê hoặc mà thay đổi, thì thất cả thần tử của bản triều đều được đem pháp luật mà giết đi, để cho lẽ phải của nước được vững”.
(sđd., tr. 129 – 131).
++ Cơ mật viện – Thương bạc tâu: Bọn côn đồ Bắc Kỳ không thỏa chí ngầm đến Gia Định giả thác yêu cầu Pháp; cần phải đề phòng bọn chúng (kiểu dạng Pi E [Pierre] Tạ Văn Phụng…). Bộ Hình (*) của Nguyễn Văn Tường được lệnh nghị xử thật nặng Nguyễn Văn Phương, dẫu y chỉ trốn đất Bắc vào Nam, ở thời điểm Nam Kỳ đã do giặc Pháp cai trị.
(sđd., tr. 131 – 132).
---- (*) Từ đây, người biên soạn (Trần Xuân An) sẽ khảo sát Nguyễn Văn Tường, ngoài tên họ, còn ở ba cụm từ chỉ chức vụ: thượng thư Bộ Hình, Cơ mật viện đại thần, quản lí Thương bạc đại thần. Riêng “Cơ mật viện đại thần”, phải hiểu là một nhóm người (từ 3 đến 5 đại thần). Xin xem thêm “Lưu ý” ở tiểu mục phía dưới. ----
++ Tự Đức ra dụ hiểu thị sĩ dân Bắc Kỳ.
(sđd., tr. 132 – 133).
++ Nguyễn Tư Giản kiêm sung đã nhiều chức trách, nên thôi việc ở Viện Cơ mật; Trần Bình sung Cơ mật viện đại thần.
(sđd., tr. 136).
Lưu ý: Viện Cơ mật và Thương bạc, gọi tắt là Viện – Bạc, bởi trong Cơ mật viện ở giai đoạn này, công tác đối ngoại, gồm ngoại giao và ngoại thương, đặc biệt được ưu tiên hàng đầu, cực kì quan trọng. Viện – Bạc chỉ đạo trực tiếp cho Nha Thương bạc
Đại thần Cơ mật viện – Thương bạc: Trần Tiễn Thành. Nguyễn Văn Tường, Lê Bá Thận, Trần Bình (tứ trụ).

++ Bộ Hình do Nguyễn Văn Tường đảm trách vận dụng luật để cứu xét một vụ án ở Quảng Nam, đưa ra mức án có giảm nhẹ hơn so với quan tỉnh, nhưng hơi nặng so với đình thần (quan tỉnh: lăng trì [: tùng xẻo cho đến khi chết hẳn]; Bộ Hình: chém ngay lập tức; đình thần: chém ngay lập tức nhưng cho cứu xét rồi thi hành án ngay). Vua trách Nguyễn Văn Tường chưa kịp nắm vững luật (mới nhậm chức).
(sđd., tr. 136 – 137).
++ Bộ Hình của Nguyễn Văn Tường tâu xin định lại lệ xử thêm bậc (mức phạt) trong khóa thanh tra, truy bồi do quan chức thi hành công vụ không được việc. Vua chuẩn theo đề nghị.
(sđd., tr. 137 – 138).
+++ Tháng mười hai âl..
++ Trần Đình Túc, Nguyễn Tăng Doãn bị giáng cấp, phạt bổng, vì trái lệnh, cho tàu thủy Tây chở hàng của người buôn Trung Hoa, và cho phái viên Pháp 100 thước vuông ta đất để di táng An Nghiệp Ngạc Nhe ( Françis Garnier).
(sđd., tr. 140).
++ Phạm Phú Thứ tâu xin cho đoàn thuyền Đồ Phổ Nghĩa (Đô Phối, Jean Dupuis) chở hàng cho người Hoa buôn bán. Vua cho, bảo phải nộp thuế.
(sđd., tr. 140).
++ Vua bảo Viện Cơ mật định liệu về chỗ ở tại Bảo Thắng (Hưng Hóa) của Lưu Vĩnh Phúc, vì ngại Pháp thù hiềm y, lo y ngáng trở việc thông thương của chúng, sinh khích biến.
(sđd., tr. 141).
++ Tự Đức phân tích, đánh giá về lính Bắc Kỳ: Do thói tệ nên nhát; đề xuất biện pháp chấn chỉnh, chuyển thành quân tinh nhuệ như vốn đã thành truyền thống trong lịch sử.
(sđd., tr. 142 – 143).
++ Giảm bớt việc tu bổ chùa chiền (do Bộ Công đảm trách) trong điều kiện khó khăn chung.
(sđd., tr. 145).
++ Sứ bộ Phan Sĩ Thục vào báo cáo tình hình nước Trung Hoa nhà Thanh (Đại Thanh) hiện thời: tô giới, nhượng địa; được truyền bá Thiên Chúa giáo; mở cục kĩ nghệ; quân lính tập súng Tây; mức sống dân bị quẫn bách; quyên nộp (mua hàm bán chức) sinh thói tệ…
(sđd., tr. 146 – 147).
++ Tự Đức ra đạo dụ mở rộng đường ngôn luận, tâu nói để vua biết hết lòng dân.
(sđd., tr. 147 – 148).
++ Bộ Hình do Nguyễn Văn Tường đảm trách tâu xin định lại điều lệ bắt kẻ phạm chuộc tội (lấy công truy bắt được kẻ vị truy nã để chuộc tội); không chuẩn cho bọn tái phạm được lập công chuộc tội kiểu ấy lần thứ hai.
(sđd., tr. 149 – 150).
++ Tự Đức âu lo về tình trạng người Pháp ngầm giúp hậu duệ nhà Lê để lật đổ nhà Nguyễn như trước đây, nên vua lại ra đạo dụ cho sĩ dân Bắc Hà.
(sđd., tr. 153 – 157).
++ Vua nước Đại Thanh (Trung Hoa) Đồng Trị chết. Hoàng tử Tái Quát lên ngôi: Quang Tự.
(sđd., tr. 157).

32) Tự Đức năm thứ 28, Ất hợi (1875): 52 tuổi.
+++ Tháng giêng âl..
++ Ngày mùng một Tết, triều đình nhận được tập tâu đánh thắng bọn giặc biển Đám Dài ở Phù Long, thuộc tỉnh Quảng Yên, của tuần phủ Hồ Trọng Đỉnh (Liễn [?]). Vua và các hoàng thân, đại thần uống trà, làm thơ, đọc thơ mừng tin báo tiệp.
(ĐNTL.CB., tập 33, sđd., tr. 159).
++ Chuẩn lệ định nha, bộ, viện đề cử thuộc viên.
(sđd., tr. 159 – 161).
++ Thự Văn Minh điện đại học sĩ, thượng thư Bộ Binh, Cơ mật viện đại thần Trần Tiễn Thành vốn rất được Tự Đức trọng đãi, gần đây đau bụng, xin nghỉ việc, nay lại vào triều, hai lần lạy tạ vua.
(sđd., tr. 161).
++ Duyệt binh lớn.
(sđd., tr. 163).
++ Ông Ích Khiêm: quyền tán tương, ra Bắc. Vua thường khen Ông Ích Khiêm đỗ cử nhân lúc mới 15 tuổi, nhưng cũng thường trách là hăng hái mà vô lễ; nay khuyên Ông Ích Khiêm cố làm nho tướng.
(sđd., tr. 163 – 164).
++ Sai linh mục lãnh chức chủ sự Ti Hành nhân (thông ngôn) phiên dịch sách Tây (ngữ pháp, kĩ thuật quân sự, luật quân đội…). Linh mục thông ngôn Nguyễn Hoằng (Hoán) ấy và cả linh mục Đăng (Dangelzer) đều cho rằng không rành từ chuyên môn kĩ thuật, công nghệ máy móc… Đành chờ người phái đi Tây du học về sẽ dịch.
(sđd., tr. 164 – 165).
++ Bộ Hình của Nguyễn Văn Tường dâng bản thống kê về hình án để đọng (giam lâu chưa xét xử), ở kinh đô và tỉnh ngoài. Vua giao cho Bộ Hình xét xử cả 4 quan tỉnh vì để đọng án, gây đau khổ cho dân; khuyên Bộ Hình phải ra sức làm gương.
(sđd., tr. 165 – 166).
+++ Tháng hai âl..
++ Định thể chế đình nghị về việc mật hay không mật (ở Viện Cơ mật, ở Tả vu, ở Viện Tả Đãi lậu).
(sđd., tr. 166).
++ Định lệ thưởng phạt người tiến cử (tiến cử người hiền tài, thần đồng đích thực; đánh giá sai về người được tiến cử hoặc do thiên vị…).
(sđd., tr. 168 – 169).
++ Bộ Binh của Trần Tiễn Thành để trì trệ không xét vụ Vũ Duy Trinh, vốn là tên giặc ra đầu thú, nay là viên ngoại lang Bộ Công, ngôn ngữ, cử chỉ không giống sĩ phu. Bộ Lại của Nguyễn Tư Giản lại dâng tờ tâu đề cử làm án sát! Khoa đạo (Viện Đô sát) tâu hặc.
(sđd., tr. 169 – 170).
++ Nguyễn Uy giải chức. Tham tán Tôn Thất Thuyết: tuần phủ, hộ lí tổng đốc Ninh – Thái kiêm hiệp đốc các việc quân thứ Ninh – Thái – Lạng – Bằng. Nguyên thự tuần phủ Hà Nội Phạm Thận Duật trả chức từ tháng 10 âl., Giáp tuất (1874), nay mới được bổ nhiệm: thăng thụ tuần phủ Bắc Ninh. Tôn Thất Thuyết khiêm tốn tâu: Ít học, bệnh nhiều, xin vẫn là tham tán, không dám nhận chức mới. Vua bảo đã xem xét, phải chấp hành.
(sđd., tr. 170).
++ Sửa định luật lệnh (Vũ Khoa, Phan Sĩ Thục, Chu Duy Tĩnh, Ngô Quý Thông đảm trách) để làm “Đại Nam tụ trân điển lệ hội biên” (nhưng sau lại hoãn làm).
(sđd., tr. 172 – 173).
++ Bộ Hình của Nguyễn Văn Tường tâu xin định lại lệ nộp tiền chuộc tội xuy trượng. Có 4 ưu điểm trong việc cải cách này:
1) Các tội nhân bị đánh trượng có thể bị chết. Phải thấy rõ thực trạng đó.
2) Bình đẳng, không phân biệt người trong kinh, ngoài tỉnh, tất thảy đều được nộp tiền thay vì phải chịu phạt roi, trượng, theo một lệ.
3) Người nghèo khó không có tiền để chuộc tội, nên giảm cho 50%.
4) Luật lệ phải thống nhất và cách thu tiền chuộc phải có quy chế, không để cho các quan tùy tiện xê xích, dễ sinh tiêu cực.
(sđd., tr. 175 – 176).
++ Ban cho Phạm Văn Nghị (tiến sĩ) 100 lạng bạc vì bị Pháp thù ghét, phải ở ẩn.
(sđd., tr. 176).
+++ Tháng ba âl..
++ Khâm phái đại thần Nguyễn Văn Tường, phó khâm phái Phạm Ý cùng chánh khâm sứ và phó khâm sứ nước Pháp: Ba Long Bô, Lê Nho (thiếu tá hải quân Brossard de Corbigny và Regnault de Premesni) trao “hòa” ước 22 khoản, kí kết ngày 15-3-1874, tại sân trước lầu Ngọ Môn (Huế). Lễ hỗ giao: 11-3 âl., Tự Đức năm thứ 28 (14-4-1875). Sứ Pháp vào yết kiến vua Tự Đức tại điện Cần Chính, kính bưng bội tinh và phẩm nghi để cung tặng theo nghi thức ngoại giao. Triều đình cũng kính tặng phẩm vật, khánh vàng đáp lễ.
(sđd., tr. 177 – 178).
Lưu ý: Bội tinh, khánh vàng… đều là lễ vật ngoại giao (“hữu nghị”!).
++ Vua khiển trách các hoàng thân, quan viên, khi làm nghi lễ ngoại giao đã sơ suất, lộ vẻ tò mò, lạ lẫm trước người Pháp (có lẽ lần đầu tiên thấy tận mắt “bọn mắt xanh, mũi lõ, da bạch tạng, tóc râu ngô”, theo cách nói của người mình thời bấy giờ). Bốn người bị phạt lương từ 3 tháng đến 1 năm.
(sđd., tr. 179 – 180).
++ Định việc khâm sứ Pháp đóng ở kinh đô, gồm 14 khoản (do Nguyễn Văn Tường, Phạm Ý và Ba Long Bô [Brossard de Corbigny], Lê Nho [Regnault de Premesni] hội đồng nghĩ định, giao cho đình thần xét tâu, xin chuẩn định; lập biên bản, sao làm hai bản cho hai nước). Trong đó, đáng lưu ý: Khâm sứ Pháp ngang với tham tri nước ta; khâm sứ Pháp đến công thự Thương bạc đại thần phải đưa giấy thông báo trước, sắc thư nước Pháp phải do đại quan nước ấy mặc triều phục Pháp bưng đến giao cho Thương bạc đại thần nước ta xem xét; lãnh sự nước ta đóng ở Gia Định cũng như lãnh sự các nước; binh thuyền nước Pháp đến Thuận An (Huế) không quá 1 chiếc, không được chở binh khí…
(sđd., tr. 180 – 181).
++ Bắt đầu làm tạm bằng tranh tre dinh thự thương chính ở Ninh Hải (Hải Dương) và Đồn thủy Hà Nội (chưa xây gạch ngói thực).
(sđd., tr. 181).
++ Dân theo Thiên Chúa giáo ở Nghệ An, Hà Tĩnh đến tỉnh, đạo, kêu đòi bồi thường. Vua xuống dụ phân tích tình trạng mùa đông 1873 và mùa xuân 1874: Giáo dân làm hậu thuẫn cho Pháp; các nhà nho Văn thân sát tả [chủ yếu là sát tả!] và bình Tây (trong khi triều đình tiến hành “sách lược thỏa hiệp tạm thời”); có thể các quan khi được lệnh đánh dẹp cuộc chiến lương – giáo (như Lê Bá Thận, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Chính, Nguyễn Khuyến [tam nguyên Yên Đổ], Hoàng Hữu Xứng…, nhất là các viên đã được phái đi trước như Hồ Uy [Oai], Chu Đình Kế, Lê Dụ…) lại nhân thể đánh dẹp cả hai, “ngọc đá đều cháy”, vừa dẹp phe Văn thân, vừa đánh bọn giáo dân theo Pháp; chủ yếu là do dân lương, dân giáo giết nhau, đốt nhà cửa của nhau. Vua lại phê phán giáo dân Thiên Chúa giáo kiện tụng bậy. Có câu trong nguyên văn: “Dân giáo của ngươi nhiều người bị chết, dân lương há không chết nhiều ư? Bảo rằng của cải dân giáo mất nhiều, dân lương bị mất, so với ngươi, há lại chẳng gấp đôi ư? Nếu hết thảy phải đền [cho] ngươi, thì dân lương bị mất, ai sẽ phải đền [cho dân lương]?...” . Tuy vậy, trong bản dụ của vua Tự Đức, vẫn có câu sợ mất lòng, khích biến Pháp: “lại thù hằn người Pháp [đã bỏ rơi các ngươi, đã thỏa hiệp với triều đình], còn ra thế nào?”
(sđd., tr. 186 – 189).
++ Ba Long Bô (Brossard de Corbigny], giám mục Ngô Gia Hậu (Gauthier), giám mục Hòa (Croc) vẫn kiện tụng đòi bồi thường cho giáo dân Nghệ – Tĩnh.
(sđd., tr. 190).
++ Nha Thương bạc viết thư ngoại giao cho tướng Pháp tại Gia Định (yêu cầu: đánh giặc biển; buôn gạo Nam Kỳ ra, vì dân miền ngoài thiếu đói; không nên căm thù Lưu Vĩnh Phúc; chưa thể thông thương đường sông lên Vân Nam, Trung Hoa).
(sđd., tr. 190 – 191).
++ Trị tội bọn quan lại cơ hội, làm tay sai cho Pháp lúc Pháp chiếm Nam Định (1873): Đào Trọng Kỳ (tri phủ Kiến Xương), Lê Đình Quyên, Nguyễn Văn Quy (hiệp quản).
(sđd., tr. 191).
(xem thêm: “Quốc triều hương khoa lục” , sđd., số thứ tự: 2465, tr. 370).
++ Ruộng lộc điền cho công thần được phong tước (công, hầu, bá, tử, nam).
(sđd., tr. 192 – 193).
+++ Tháng tư âl..
++ Vũ Trọng Bình: tả tham tri Bộ Lại (bỏ chức tuần phủ Nghệ An).
(sđd., tr. 196).
++ Ông Ích Khiêm bị giải về kinh đợi án (theo lời tâu của Tôn Thất Thuyết), lại mắc bệnh tâm hỏa, về quê.
(sđd., tr. 198).
++ Vũ Trọng Bình lại ra Bắc vì đê Văn Giang vỡ.
(sđd., tr. 198 – 199).
+++ Tháng năm âl..
++ Pháp làm Nha Thương chính Hải Dương; linh mục Nguyễn Hữu Cư (người Việt, còn có tên là Thơ) làm tham biện Ti Thương chính tỉnh ấy; linh mục Nguyễn Hoằng (người Việt, còn có tên là Hoán) làm Ti Hành nhân, thuộc Nha Thương bạc.
(sđd., tr. 202).
++ Pháp giết chết cử nhân Bình Thuận Nguyễn Hữu Huân và Âu Dương Lân (cùng Văn thân và một số người Hoa chống Pháp).
(sđd., tr. 203).
++ In 200 bản thương ước 20-7 âl., Giáp tuất (31-8-1874), phát hành cho các tỉnh và người buôn nước Trung Hoa.
(sđd., tr. 207).
++ Làm Sở Thương bạc ngoài Thành nội, trước cửa Đông nam (cửa Thượng Tứ).
(sđd., tr. 208).
++ Nha Thương bạc viết thư thương thuyết với Phủ súy Pháp về vụ La Đăng [Dujardin] nghi ngờ Tôn Thất Thuyết tấn công (vì vào tháng 10 âl., Giáp tuất [1874], tướng Pháp còn sai La Đăng [Dujardin] chở thức ăn đến cho Đồ Phổ Nghĩa [Jean Dupuis] bằng tàu thủy Sắc Tê [?], do đó quân ta không thể làm ngơ…).
(sđd., tr. 208).
++ Thi đình (phúc hạch cử nhân thi hội trúng cách). Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Tư Giản sung chức đọc quyển; Trần Văn Chuẩn, Bùi Ân Niên [Bùi Dị]: duyệt quyển. Lấy đỗ tiến sĩ: Phạm Như Xương…; đồng tiến sĩ: … Hoàng Hữu Thường, Tống Duy Tân…, Trần [Văn] Dư (Rư)…; phó bảng: … Tạ Thúc Dĩnh…
(sđd., tr. 208 – 209).

XIII. THỜI LÀM THƯỢNG THƯ BỘ HỘ, ĐẠI THẦN VIỆN CƠ MẬT – THƯƠNG BẠC, ĐẠI THẦN QUẢN LÍ SỰ VỤ NHA THƯƠNG BẠC

+++ Tháng sáu âl..

++ Nguyễn Văn Tường: đổi bổ thượng thư Bộ Hộ, vẫn sung Cơ mật viện đại thần, quản lí công việc Thương bạc (*). Trần Bình: đổi bổ thự thượng thư Bộ Hình, kiêm coi Bộ Công (vì Phạm Ý có tang mẹ, nghỉ 3 tháng).
(sđd., tr. 211).
---- (*) Từ đây, người biên soạn khảo sát nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường trong ĐNTL.CB. kỉ IV, ngoài tên họ Nguyễn Văn Tường được ghi rõ, còn qua 3 chức danh: thượng thư Bộ Hộ; quản lí Thương bạc đại thần; và riêng “Cơ mật viện đại thần” là gồm một nhóm đại thần (thường là tứ trụ triều đình), tùy ngữ cảnh mà xác định. ----
++ Định lại lệ phái thuyền đến các nước thông thương để mua vật hạng và để quan sát, tìm hiểu tình hình các nước. Viện – Bạc [Cơ mật viện – Nha Thương bạc] và Bộ Hộ của Nguyễn Văn Tường cùng Bộ Công của Trần Bình bàn bạc: nhân thể, buôn kiếm lãi, lấy thu bù chi cho công quỹ (công quỹ vốn bị cạn kiệt).
(sđd., tr. 213).
++ Trương Quang Thủ ở Nghệ “đầu thú” (nguyên văn).
(sđd., tr. 214).
++ Khâm sứ Pháp Lê Na (Rheinart) đến cửa biển Thuận An (Huế). Bộ Lễ phái người đón tiếp. Lê Na (Rheinart) đến Sứ quán, đệ giao quốc thư cho Nha Thương bạc do Nguyễn Văn Tường đảm trách. Lê Na (Rheinart) là khâm sứ thường trú đầu tiên tại kinh đô, theo “hòa” ước Giáp tuất (1874).
(sđd., tr. 214).
++ Bộ Hộ của Nguyễn Văn Tường: thu thuế thiếc, sản xuất ở Vân Nam (Trung Hoa), chở xuống Hà Nội để đưa sang Quảng Đông (Trung Hoa).
(sđd., tr. 217).
+++ Tháng bảy âl..
++ Quan tỉnh Hải Dương Phạm Phú Thứ thông tư về nạn sâu bọ, nước lụt cho Bộ Hộ. Vua trách, phải tự liệu; không vì nước thì vì dân!
(sđd., tr. 218).
++ Bộ Hộ (thượng thư Nguyễn Văn Tường) cải cách thuế ruộng: từ Hà Tĩnh trở ra Bắc, vốn xưa nay thuế ruộng công rất nặng, thuế ruộng tư lại rất nhẹ; do đó, có khuynh hướng biến ruộng công thành ruộng tư (bọn cường hào, địa chủ câu kết tập trung ruộng vào tay). Nay cải cách lại, theo cách đánh thuế ruộng từ Quảng Bình vào Nam: ruộng công, ruộng tư bằng nhau (tùy theo hạng). Vua chuẩn cho.
(sđd., tr. 220).
(xem thêm: ĐNTL.CB., tập 34, sđd., tr. 332 – 333).
Phải chăng từ đấy bài ca dao sau xuất hiện và truyền miệng trong dân gian:
“Từ nay tôi cạch đến già
Tôi không dám cấy ruộng bà nữa đâu
Ruộng bà vừa xấu vừa sâu
Vừa bé hạt thóc vừa lâu đồng tiền
Tôi về cấy ruộng công điền
Hạt thóc đã lớn quan tiền trao tay”.

++ Nguyễn Tư Giản có học trò là Phan Văn Nhã; y làm giả ấn quan phòng tỉnh Thanh Hóa, nộp đơn chờ bổ nhiệm ở Bộ Lại. Nguyễn Tư Giản và 2 người khác đều đóng ấn, kí tên. Biện lí Tôn Thất Phan tâu hặc. Nguyễn Tư Giản bị cách chức; vua chuẩn cho đến miền núi khẩn hoang chuộc tội. Thượng thư Bộ Lễ Lê Bá Thận kiêm coi Bộ Lại.
(sđd., tr. 220 – 221).
++ Tổng đốc [Nghệ] An – [Hà] Tĩnh Nguyễn Chính tâu xin giúp đỡ dân ở đấy trước đây bị đốt nhà, chết người, do lương, giáo thù nhau.
(sđd., tr. 222).
++ Thương bạc đại thần Nguyễn Văn Tường cùng khâm sứ Pháp Lê Na (Rheinart) giao thương ước cho nhau ở dinh Nha Thương bạc.
(sđd., tr. 222).
++ Định rõ các tờ mật tâu của đình thần từ nay đều do Viện Cơ mật cất giữ để giữ bí mật tốt.
(sđd., tr. 222 – 223).
++ Bộ Hộ (thượng thư Nguyễn Văn Tường): xin định rõ lệ biên phiếu thu thuế quan.
(sđd., tr. 223 – 224).
+++ Tháng tám âl..
++ Thự tổng đốc Hải – Yên, tổng lí Thương chính Phạm Phú Thứ không có lòng “hòa hảo” (!) với người Pháp. Vua dụ phải lưu lại mặc dù đã “khiển trách” (!).
(sđd., tr. 224).
++ Vua trách Bộ Binh của Trần Tiễn Thành không luyện tập cho quân lính.
(sđd., tr. 224).
++ Quân thứ Tuyên Quang và quân nước Thanh bắt sống tướng phỉ Cờ vàng Hoàng [Sùng] Anh (*), xử lăng trì, bêu đầu…
(sđd., tr. 225 – 226).
---- (*) Hoàng Sùng Anh (tàn dư Thái Bình thiên quốc biến tướng) là một trong vài tên tướng giặc Cờ đã khiến nhân dân, quan quân hai nước Đại Nam và Đại Thanh hao tổn nhiều nhất về người và của. ----
++ Sơn phòng sứ Thanh Hóa Trương Quang Đản tâu xin lập hệ thống sơn phòng khắp nước.
(sđd., tr. 226 – 227).
++ Vua chuẩn cho việc định lệ dân Thiên Chúa giáo được đi thi, làm quan, chiểu y “hòa” ước Giáp tuất (1874), theo sự tâu trình của đình thần (cạnh tên chua vào 2 chữ “giáo dân”; tham dự tế lễ, triều mừng phải theo tục lệ nước ta…).
(sđd., tr. 228).
++ Thưởng cho các hộ dệt vải nhung ở Hà Nội; khuyến khích lập xưởng thợ cơ khí: xe, thuyền, súng, khí cụ, đồng hồ…
(sđd., tr. 230 – 231).
+++ Tháng chín âl..
++ Khâm sứ Pháp Lê Na (Rheinart) đến Nha Thương bạc hội thương, yêu cầu cho biện lí Bộ Công Nguyễn Văn Chất cùng đến xã Dương Xuân, Nguyệt Biều. Với mục đích chọn đất làm trụ sở, Lê Na (Rheinart) dùng mánh khóe, chuẩn bị sẵn 30 giáo dân để giúp y đóng cọc cuộc đất. Do đó, quan Thương bạc và khâm sứ Pháp đi đến chỗ mất hòa khí. Tướng Pháp tại Gia Định và vua Tự Đức phải trao đổi thư hòa giải. Nguyên văn lời Tự Đức: “không nên làm nhục nhau” . Vua quy trách do quan Thương bạc khinh thường, nghe lời để bị vấp mánh khóe của Lê Na (Rheinart). Quan Thương bạc Nguyễn Văn Tường, quan huyện hương thủy bị giáng cấp, lưu nhiệm (*) (**).
(sđd., tr. 232).
---- (*) Xem: Delvaux, “Những người bạn cố đô Huế (BAVH., 1916), tập 3, nhiều người dịch và hiệu đính, Nxb. Thuận Hóa, 1997, tr. 33. Để rõ hơn, xin xem: Bửu Kế, “Chuyện triều Nguyễn”, Nxb. Thuận Hóa, 1990, tr. 79 – 80.
(**) Bổ sung thêm tư liệu tham khảo (2003), người biên soạn (Trần Xuân An) ghi bằng tay vào bản vi tính 2001: Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, “Châu bản triều Tự Đức (1847 – 1883)”, Vũ Thanh Hằng, Trà Ngọc Anh, Tạ Quang Phát tuyển dịch, Nxb. Văn Học, 2003, tr. 223, 233 (các tiểu mục: 893, 926 và 928). ----

++ Lãnh sự Pháp ở Hải Dương xin đi thượng du. Quan Viện – Thương bạc tâu lên. Vua không cho. Quan Thương bạc viết thư nói rõ cho tướng Pháp tại Gia Định để y bảo lãnh sự Pháp tuân lệnh.
(sđd., tr. 233).
++ Định lệ Nha Thương chính mỗi cuối tháng phải làm bản báo cáo gửi về Bộ Hộ.
(sđd., tr. 234).
++ Tôn Thất Thuyết: đổi làm hiệp đốc quân vụ đại thần quân thứ Tuyên Quang, Hưng Hóa, vì Pháp nghi kị Tôn Thất Thuyết. Phạm Thận Duật: hộ lí tổng đốc Ninh – Thái, thay Tôn Thất Thuyết.
(sđd., tr. 235 – 236).
++ Giáng tuần phủ Thuận – Khánh Lê Đình Tuấn, đổi bổ lĩnh bố chính sứ Hà Nội; bố chính sứ Hà Nội Trương Gia Hộ lĩnh tuần phủ Thuận – Khánh. Nguyên do: Pháp gửi văn thư trình bày việc Lê Đình Tuấn che chở cho Trần Khai Kim (người Thanh), vốn là người mộ nghĩa. Quan Viện – Thương bạc tâu xin hoán đổi để khỏi mất lòng, khích biến người Pháp lúc này. Vua dặn Trương Gia Hội cứ giúp đỡ người Nam Kỳ mộ nghĩa nhưng chớ để lộ thanh tích (tiếng tăm, dấu vết), mới ổn thỏa.
(sđd., tr. 236 – 237).
++ Thự tổng đốc Bình – Phú Hoàng Văn Tuyển: thượng thư Bộ Công.
(sđd., tr. 238).
++ Ngô Gia Hậu (Gauthier, giám mục) đến kinh đô Huế kêu kiện về cuộc xung đột lương – giáo ở Nghệ An. Lê Na (Rheinart) đưa thư cho Nha Thương bạc, lời lẽ bất mãn. Phan Huy Khiêm sung làm khâm sai ra truy xét.
(sđd., tr. 240).
++ Gia thế Tôn Thất Đính (thân sinh Tôn Thất Thuyết), vua cần biết, để khuyên Tôn Thất Thuyết về việc hàm dưỡng, ôn luyện, trở thành một nho tướng.
(sđd., tr. 245 – 246).
+++ Tháng mười âl..
++ Bộ Hộ của Nguyễn Văn Tường tham gia xử án với Bộ Hình của Trần Bình.
(sđd., tr. 248 – 249).
++ Sung quản lí Thương chính và Hải phòng tỉnh Hải Dương Nguyễn Hữu Độ về kinh đô, vào chầu vua, tâu về đê chính, lưu dân, thương chính (lời lẽ tỏ ra có tinh thần chống Pháp, cảnh giác với mưu đồ của chúng). Vua thăng thự hồng lô tự khanh, biện lí Bộ Lại, làm việc ở Nha Thương bạc của Nguyễn Văn Tường.
(sđd., tr. 253 – 254).
++ Nguyễn Văn Tường tâu xin đặt Nha Kinh lí Sơn phòng tỉnh Quảng Trị, lấy hai huyện Thành Hóa, Hướng Hóa lệ thuộc vào, đặc biệt lưu ý khai khẩn quanh đồn Trấn Lao (huyện Thành Hóa); và nhắc đến thời ông làm bang biện ở đấy (1866 – 1868), có ý tâu xin tăng cường việc phòng thủ: Thời đoạn này, phải phòng thủ, vậy mới thực tế.
(sđd., tr. 255).
(xem lại: ĐNTL.CB., tập 31, sđd., tr. 89).
+++ Tháng mười một âl..
++ Hoàng Văn Tuyển: Cơ mật viện đại thần.
(sđd., tr. 256).
Đại thần Cơ mật viện – Thương bạc lúc này: Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường, Lê Bá Thận, Trần Bình, Hoàng Văn Tuyển.
++ Tàu thủy nước Pháp lên thẳng thượng du Bắc Kỳ, vẽ bản đồ, tìm quặng mỏ trái phép.
(sđd., tr. 257 – 258).
++ Bắt đầu đánh thuế dầu hồi (tinh dầu của cây hồi).
(sđd., tr. 257).
++ Nguyễn Văn Tường muốn từ chối khéo chức quản lí Thương bạc, giao cho Nguyễn Hữu Độ (lúc này bản chất cơ hội, tay sai của y chưa bộc lộ rõ). [Vả lại, Nguyễn Văn Tường phải kiêm nhiệm nhiều; công tác ở Nha Thương bạc trong thời đoạn “thỏa hiệp tạm thời” , “chịu khuất” để chấn chỉnh nội lực của Đất nước, gặp việc trái lòng phải nén lại, rất khó chịu] (*). Vua không cho.
(sđd., tr. 258).
---- (*) Đây là lần thứ hai, Nguyễn Văn Tường muốn từ khước công việc quản lí Thương bạc sự vụ. (Xem lại: ĐNTL.CB., tập 33, sđd., tr. 126 – 127). ----
++ Tha thuế năm Tự Đức thứ 26, Quý dậu (1873) cho Hà Nội.
(sđd., tr. 258).
++ Tham biện Thương bạc Nguyễn Hữu Độ đến Gia Định tiễn Du Bi Lê (Dupré) về nước Pháp.
(sđd., tr. 259).
++ Quan Thương bạc tâu: Một người Ý và một người làm thuê cho Đồ Phổ Nghĩa (Jean Dupuis) nay lại muốn làm cho ta, nhưng sứ Pháp Lê Na (Rheinart) bảo không nên. Vua phê vào tờ tâu với ý ngờ Pháp muốn cô lập nước ta (như đã ràng buộc trong thương ước 1874) và nhắc nhở rằng: Nếu Pháp hoạnh lắm, ta phải tiến thoái không ngại chúng.
(sđd., tr. 262 – 263).
+++ Tháng mười hai âl..
++ Bộ Hộ vâng lệnh hậu thưởng cho tướng sĩ nước ta ở biên giới Bắc Kỳ và cả quân Thanh, hiện do Triệu Ốc làm tướng, đang giúp ta tiễu phỉ.
(sđd., tr. 266).
++ Lại đổi 3 đạo Quảng Trị, Phú Yên, Hà Tĩnh làm 3 tỉnh như trước 1851.
(sđd., tr. 267).

33) Tự Đức năm thứ 29, Bính tí (1876): 53 tuổi.
+++ Tháng giêng âl..
++ Tuần phủ Hưng Yên Nguyễn Đức Đạt dâng sớ xin gia hạn hoãn việc thi hành theo lệ thuế mới về ruộng (công, tư bằng nhau; thống nhất trên cả nước) thêm 3 năm. Vua khiển trách (dẫn chứng: tuần phủ Nam Định Nguyễn Trọng Hợp tâu là tiện ích cho dân).
(ĐNTL.CB., tập 33, sđd., tr. 269).
++ Quan khâm mệnh chọn ngày tế giao là Nguyễn Văn Tường. Nguyễn Văn Tường gieo thẻ, không chọn được ngày tốt. Vua nhân đó bỏ lệ gieo thẻ xin ngày.
(sđd., tr. 270).
++ Pháp cấp giấy phép cho thầy thuốc nước Đồ Bà (Xà Bà, Java) trái phép. Quan tỉnh Bình Thuận xin bỏ qua (không vin “hòa” ước, phê phán Pháp), nhưng phải dò xét.
(sđd., tr. 271).
+++ Tháng hai âl..
++ Du Bi Lê (Dupré) về Pháp; Bô Giang (Bossant) sang thay.
(sđd., tr. 273).
++ Bộ Hộ của Nguyễn Văn Tường cùng Bộ Binh, Bộ Công dâng sớ phân tích các mặt về giặc biển và đề xuất biện pháp tiễu trừ.
(sđd., tr. 274 – 275).
++ Lê Đình Tuấn bị giáng làm bố chính Hà Nội, chưa kịp lãnh chức, lại được thăng hộ lí tuần phủ [Quảng] Trị – [Quảng] Bình. Vua triệu đến bảo ban, dặn dò lưu ý về nơi quan yếu là Cam Lộ (Quảng Trị).
(sđd., tr. 275).
+++ Tháng ba âl..
++ Vua nhắc nhở chiểu “hòa” ước Giáp tuất (1874) để xử trí giáo dân tranh kiện.
(sđd., tr. 276).
++ Lãnh sự Pháp đến Đông Triều (Quảng Yên) tìm mỏ than. Vua cho.
(sđd., tr. 276).
++ Đánh thuế ruộng công và ruộng tư bằng nhau ở Bắc Kỳ. Có 5 tỉnh gặp khó khăn, nộp tiền thay thóc.
(sđd., tr. 276).
++ Xung đột giữa thuộc viên khâm sứ Pháp và lính phủ Văn Lãng quận công (Hồng Dật). Lê Na (Rheinart) trình quan Thương bạc. Cuối cùng quan Viện – Bạc hội đồng xét xử.
(sđd., tr. 277).
++ Đốc học Pháp Trương Vĩnh Ký (người Vĩnh Long / Gia Định) từ Thanh Hóa đi Nam Định, Ninh Bình du khảo về bác vật.
(sđd., tr. 278).
++ Thu thêm một ít thóc thuế để nộp vào nghĩa thương (thay vì ruộng xã thương), từ Quảng Bình vào Nam (hai năm sau sẽ thi hành ở các tỉnh từ Hà Tĩnh trở ra).
(sđd., tr. 279 – 290).
++ Bộ Hộ, Bộ Binh thuê dân phu để phu trạm được nhẹ bớt việc.
(sđd., tr. 280).
++ Đình thần phân tích về lệnh cấm đi buôn đường biển: Nay đã lỗi thời và có hại, cần bỏ lệnh cấm ấy, để phát triển ngoại thương, tạo thế cạnh tranh với người Hoa, người Tây.
(sđd., tr. 281 – 282).
+++ Tháng tư âl..
++ Lê Na (Rheinart) vẫn không được dựng trụ sở ở Dương Xuân, Nguyệt Biều, mặc dù y đã dùng mánh khóe hồi tháng 9 âl., Ất hợi (1875). Đến nay, y đã được làm trụ sở: Sứ quán Pháp, bên kia sông Hương (*). Quan Thương bạc thần giao giấy cho y, y kí tên vào biên nhận.
(sđd., tr. 283 – 284).
---- (*) Nơi đối diện với cửa Thượng Tứ, chếch về phía Đập Đá, Vĩ Dạ, nay là Đại học Sư phạm Huế. ----
++ Tào chính, Thương chính kết hợp thành một nha (Trần Như Sơn trông coi), vẫn thuộc Bộ Hộ do Nguyễn Văn Tường đảm trách chung.
(sđd., tr. 284).
++ Thượng thư Bộ Công sung Cơ mật viện đại thần Hoàng Văn Tuyển tiết lộ việc cơ mật với đồng sự, bị phạt trượng, cách chức, không được bổ dụng. Vua ân giảm, cho làm việc chuộc tội ở Nha Thương chính. Tôn Thất Tĩnh (thự tổng đốc Thanh Hóa): thượng thư Bộ Công.
(sđd., tr. 285 – 286).
++ Khâm sứ Pháp đưa văn thư xin cho lãnh sự Hà Nội đi thăm xét thượng du.
(sđd., tr. 286).
++ Gần đây, ống chạy trạm có gãy rời. Dụ: Cần nghiêm ngặt về vấn đề giao liên ở các trạm (bưu cục…).
(sđd., tr. 286).
+++ Tháng năm âl..
++ Hiệp đốc quân thứ Thái Nguyên Tôn Thất Thuyết đệ gửi tập tâu chê trách thống đốc Hoàng Tá Viêm. Vua trách Tôn Thất Thuyết, khuyên phải cố gắng trở thành trí tướng, nho tướng, nhân tướng.
(sđd., tr. 291 – 292).
++ Từ tháng 3 âl., tàu chiến của Pháp chạy trên các tuyến sông không được sự thỏa thuận trong “hòa” ước Giáp tuất (1874). Quan Cơ mật viện – Thương bạc tâu, xin viết văn thư trách (chỉ được đi ngoài biển và từ sông Cấm đến Hà Nội).
(sđd., tr. 293 – 294).
++ Trần Ngọc Trúc và sáu nghĩa sĩ Nam Kỳ trốn khỏi đảo tù Côn Lôn, về Bình Thuận. Pháp đòi nã bắt. Trương Gia Hội phải theo lệnh vua giải giao cho Pháp, vì không giấu được, bị lộ.
(sđd., tr. 296).
+++ Tháng năm nhuận âl..
++ Tham biện Thương bạc Nguyễn Hữu Độ đến Gia Định nhận thuyền, súng đạn Pháp chuyển tặng theo “hòa” ước Giáp tuất (1874).
(sđd., tr. 297).
++ Thượng thư Bộ Binh Trần Tiễn Thành tuổi cao, khí suy, khiến việc ở Bộ Binh trì đọng. Vua cho chỉ trông coi tổng quát và xử lí việc quan trọng để được rảnh rỗi xem xét việc đình nghị.
(sđd., tr. 298).
++ Bô Giang (Bossant) về nước, Du Bi Lê (Dupré) sang thay.
(sđd., tr. 298).
++ Bãi bỏ Nha Thương chính kinh kì; công việc của Nha này vẫn thuộc Bộ Hộ do Nguyễn Văn Tường đảm trách.
(sđd., tr. 300).
++ Đỗ Đệ thăng thụ hữu tham tri Bộ Hộ.
(sđd., tr. 301).
+++ Tháng sáu âl..
++ Đình thần cho rằng công việc Bộ Hộ quá nhiều, xin tách Tào chính, Thương chính ra. Người quản lí Tào – Thương phải được Bộ Hộ cố vấn. Tạm chuẩn.
(sđd., tr. 302).
++ Vua Tự Đức tự phê bình về việc chưa lấy lại được 6 tỉnh Nam Kỳ. Đình thần hai lần xin nhà vua chỉ truyền kín chỉ dụ ấy trong nội bộ ấn quan, đừng phổ biến ra ngoài, sợ lòng dân thêm xao động.
(sđd., tr. 305 – 306).
+++ Tháng bảy âl..
++ Tìm hỏi người Tây có năng lực giúp được về kĩ thuật trị thủy (đê điều).
(sđd., tr. 308).
++ Giám mục Pháp Phu Chi Nhi (Puginier) ở Hà Nội lại chêm thêm vào việc kiện cáo của giáo dân Thanh Hóa, muốn lập ruộng đạo điền. Vua phạt quan tỉnh vì không biết bác bỏ đi.
(sđd., tr. 310 – 311).
+++ Tháng tám âl..
++ Bộ Binh và Nguyễn Văn Tường thương thuyết với Lê Na (Rheinart) về việc cho người hướng dẫn kĩ thuật súng Tây.
(sđd., tr. 312 – 313).
++ Phạm Thận Duật khỏi ốm, về kinh, nhận chức tả tham tri Bộ Lại, kiêm tả phó đô ngự sử Viện Đô sát.
(sđd., tr. 314).
++ Bộ Hộ (thượng thư Nguyễn Văn Tường) tâu về số ruộng khẩn hoang của Trần Đình Túc, Nguyễn Lâm trước đây. Trần Đình Túc được thưởng.
(sđd., tr. 317).
++ Các tổng đốc, tuần phủ như Phạm Phú Thứ (Hải – Yên), Trần Đình Túc (Hà – Ninh), Trần Hy Tăng (Hà Nội), Nguyễn Tăng Doãn (Hải Dương) đều kiêm thêm việc quản lí thương chính.
(sđd., tr. 318).
++ Lê Na (Rheinart) vào chầu, chúc mừng nhân Tiết Vạn thọ.
(sđd., tr. 318).
+++ Tháng chín âl..
++ Kê La Đích (Kergaradec), lãnh sự ở Hà Nội, lên sông Thao xem xét đường sông.
(sđd., tr. 322).
++ Nguyễn Uy (Oai) chết.
(sđd., tr. 322 – 323).
++ Vua đặt tên 5 chiếc tàu thủy Pháp tặng theo “hòa” ước: Lợi Tái, Lợi Tế, Lợi Đạt, Lợi Dụng, Lợi Phiếm.
(sđd., tr. 324).
++ Định lệ dân lương, dân Thiên Chúa giáo kêu kiện.
(sđd., tr. 324).
++ Vua Tự Đức động viên việc tiến cử.
(sđd., tr. 324 – 325).
++ Đường trạm của ta chỉ nhận chuyển thư từ của tướng Pháp, lãnh sự Pháp, không nhận chuyển cho linh mục, giám mục.
(sđd., tr. 325 – 326).
++ Lãnh sự Pháp đến biển Thị Nại (Bình Định) mở việc buôn bán.
(sđd., tr. 328).
+++ Tháng mười âl..
++ Lãnh sự Hà Nội Kê La Đích (Kergaradec) đi thám xét thượng du Bắc Kỳ.
(sđd., tr. 340).
++ Biện lí Bộ Hình Nguyễn Hữu Hoán đến Gia Định thưởng cho tướng Pháp.
(sđd., tr. 340).
++ Lê Na (Rheinart) về nước (do bị bệnh), Hoắc Đạo Sinh (Philastre) sang thay, làm khâm sứ ở Huế.
(sđd., tr. 341).
++ Cho người buôn thuộc nước Thanh lãnh trưng các thuế sản vật. Nếu có thói tệ, trừng trị ngay.
(sđd., tr. 345).
+++ Tháng mười một âl..
++ Tự Đức làm bài kí “Thuyền ngũ lợi” (*). Đó là bài kí tặng Nguyễn Văn Tường, và có ý nói: Mới tặng danh, và mong chờ báo đáp thiết thực bằng tài ngoại giao của Nguyễn Văn Tường.
(sđd., tr. 347).
---- (*) Xem nguyên văn và bản dịch trong “Tự Đức thánh chế văn tam tập”, tập 2, Tủ sách Cổ văn, UBDT. PQVK. ĐTVH. xb., Sài Gòn, 1973, tr. 223 – 227. ----
++ Chuẩn bị điển lễ của hoàng tử; cất vào hòm sắt văn bản về điển lễ ấy. Nếu trái, sẽ bị xử trọng hình.
(sđd., tr. 348 – 350).
++ Người buôn nước Thanh chở tiền đồng cổ ra khỏi nước ta. Nghiêm cấm.
(sđd., tr. 352).
++ Hoắc Đạo Sinh (Philastre) muốn học sách Nho. Tạo điều kiện cho y.
(sđd., tr. 352).
++ Tuần phủ Nam – Ngãi Trần Văn Thiều (vi phạm có tình tiết về việc cho lãnh trưng thuế thuốc phiện) bị phạt trượng tột bậc và bị tội đồ.
(sđd., tr. 353).
---- Từ tháng mười hai, năm Ất sửu (1865), triều đình Tự Đức đã bỏ lệnh cấm nhân dân sử dụng thuốc phiện, nhưng hạn chế tối đa bằng cách đánh thuế thật nặng (chỉ người giàu có mới hút nổi), nhằm bù đắp vào ngân sách cạn kiệt do khoản “bồi thường chiến phí” ngược ngạo, thực dân Pháp và Tây Ban Nha đã ép buộc nước ta phải trả cho chúng (“hòa” ước Nhâm tuất [1862]). Hệ quả này cũng nằm trong chiến lược toàn cầu của thực dân Phương Tây, chẳng hạn như ở Trung Hoa, “cuộc chiến tranh thuốc phiện” đã được thực dân Anh tiến hành, buộc nhà Thanh phải kí kết “hòa” ước Nam Kinh từ 20 năm trước (1842). Về sau, khi đã áp đặt được ách nô lệ, thực dân Pháp đã đầu độc nhân dân ta không những bằng ma túy, mà còn bằng rượu, với những thủ đoạn kinh tế, tài chính và cả thủ đoạn hành chính thâm độc. ----
+++ Tháng mười hai âl..
++ Lãnh tổng đốc Nguyễn Chính ở Nghệ An tâu xin gia hạn thêm sáu tháng để phân xử vấn đề lương – giáo, và xin Nha Thương bạc đem sổ bồi thường thông báo cho Phủ súy Pháp tại Gia Định, để y hiểu bảo dân Thiên Chúa giáo. Quan [Thương bạc? Viện – Bạc? các đình thần? (*)] dâng tập tâu phân tích mối thù lương – giáo (giáo dân thù về nhà cửa bị đốt, nay đã thôi; nhưng thù về án mạng, nay giáo dân còn buộc phải đền bù); và sợ rằng, triều đình đem sổ bồi thường trình bày cho Pháp, không khỏi bỉ mặt (mất quốc thể), Pháp lại dòm ngó [vào bí mật quốc gia]; đề nghị cứ kết án, buộc bồi thường, nếu không bồi nổi thì khoan giảm (biện pháp có vẻ hình thức để đối phó trước tình huống với mục đích để Pháp cùng giáo dân không trách được). Vua chuẩn: Mật sức cho Nguyễn Chính.
(sđd., tr. 356 – 357).
---- (*) Trong nguyên văn, chỉ có một chữ “quan”. Người biên soạn (Trần Xuân An) nghĩ rằng, đây là công việc trực tiếp của Nha Thương bạc, nên chắc hẳn tập tâu ấy là của quan Thương bạc Nguyễn Văn Tường. ----
++ Tôn Thất Thuyết muốn xuống tóc đi tu ở chùa Phật giáo. Vua trách, khuyên phải lo việc nước.
(sđd., tr. 358).
++ Công việc tiễu phỉ ở biên giới phía Bắc vẫn chưa xong. Quan điểm tiễu phỉ của Hoàng Tá Viêm: phủ dụ; khác với quan điểm của Tôn Thất Thuyết: chủ đánh, tiêu diệt. Dẫu sao, nước ta vẫn phải nhờ quân Thanh kéo quân sang, hội đánh.
(sđd., tr. 360 – 362).
Pháp mặc dù đã cam kết giúp ta tiễu phỉ (ở “hòa” ước Giáp tuất [1874]), nhưng Pháp vẫn thiếu thiện chí, thậm chí lại điêu toa ngầm giúp bọn phỉ.

34) Tự Đức năm thứ 30, Đinh sửu (1877): 54 tuổi.
+++ Tháng giêng âl..
++ Tự Đức xuống dụ, nói về tình trạng sức khỏe ốm yếu, bệnh tật, lo phiền của bản thân nhà vua, mong các quan gắng sức.
(ĐNTL.CB., tập 34, sđd., tr. 6 – 15).
++ Thống lãnh nước Thanh Tô Nguyên Chương đem 3 doanh quân đến Bắc [Kạn], Thái [Nguyên] để đánh dẹp phỉ, nhưng lại rút quân về, vì tình hình đã thư.
(sđd., tr. 15 – 16).
++ Tướng Pháp tại Phủ súy Gia Định đệ tiến phẩm vật. Đáp lễ.
(sđd., tr. 16).
++ Hộ lí tuần phủ Trị – Bình Lê Đình Tuấn: thăng thụ thị lang, thự tả tham tri Bộ Hình.
(sđd., tr. 18).
++ Bộ Hộ (Nguyễn Văn Tường) phụng chuẩn, giao cho sứ Pháp một ít vàng sống do Trương Gia Hội dâng lên, để nhờ thử nghiệm.
(sđd., tr. 19).
+++ Tháng hai âl..
++ Tỉnh Quảng Trị đói kém, ở kinh đô Huế giá gạo đắt. Bộ Hộ cho tạm ứng gạo lương của quan, lệnh cho nhà giàu không được tích trữ đầu cơ.
(sđd., tr. 20).
++ Hộ bộ tả thị lang Vũ Khoa: thự tuần phủ Trị – Bình. Vua căn dặn về vấn đề lương – giáo chưa yên; việc lo xa là phải kinh lí Cam Lộ.
(sđd., tr. 24 – 25).
+++ Tháng ba âl..
++ Mối thù giữa Lưu Vĩnh Phúc và người Pháp lại rắc rối, vì Pháp muốn đuổi Lưu Vĩnh Phúc khỏi Bảo Thắng (tỉnh Hưng Hóa) để chúng tiện đường lên Vân Nam (Trung Hoa).
(sđd., tr. 29 – 34).
+++ Tháng tư âl..
++ Một chiếc tàu Xích Mao (Hồng Mao, Anh) đến cửa biển Hải Dương buôn bán. Thuyền các nước, gồm cả Xích Mao, đến thông thương, đều chịu thuế như điều ước thương mại Giáp tuất (1874).
(sđd., tr. 34).
++ Thượng thư Bộ Hình Trần Bình kiêm quản Bộ Lại.
(sđd., tr. 37).
++ Lạng Sơn: vẫn còn phỉ quấy nhiễu.
(sđd., tr. 40).
+++ Tháng năm âl..
++ Nguyễn Thông tâu xin cho hơn 50 người Nam Kỳ mộ nghĩa khai khẩn. Vua y cho, dặn giấu kín hình tích.
(sđd., tr. 42 – 43).
++ Thi đình (phúc thí cử nhân thi hội trúng cách). Hộ bộ thượng thư sung Cơ mật viện đại thần, tước hiệu Kì Vĩ bá Nguyễn Văn Tường: đọc quyển. Nguyễn Hữu Độ, Nguyễn Thuật: duyệt quyển. Đỗ đồng tiến sĩ xuất thân: Phan Đình Phùng (*)…
(sđd., tr. 43 – 44).
---- (*) Anh hùng chống Pháp thời Cần vương (1885 – 1896…) về sau. ----
++ Tha thóc thuế và tiền vay cho 6 huyện thượng du Hải Dương.
(sđd., tr. 48).
++ Hoàng Hữu Xứng (tả thị lang Bộ Lại): kiêm coi Viện Đô sát (*).
(sđd., tr. 48).
---- (*) Hoàng Hữu Xứng là vị quan được triều thần, nhân dân nhận định là rất thanh liêm (lời Phạm Phú Thứ). ----
+++ Tháng sáu âl..
++ Đình lệnh khuyến khích dân lạc quyên. Nhân xem danh sách tâu xin khen thưởng do Bộ Hộ lập, vua ra dụ với quan điểm chứa giàu ở dân, “dân giàu là mẹ [nuôi nấng, đùm bọc] dân nghèo” (!) (*).
(sđd., tr. 49 – 50).
---- (*) Theo hình ảnh người giàu có nhân từ trong các thuyết giáo hóa cổ xưa. ----
++ Tôn Thất Thuyết lại xin nghỉ bệnh (đã nhiều lần trong mấy năm nay).
(sđd., tr. 50).
++ Tướng Pháp phái đưa tàu thủy Bô Liêm (Bourayne) giúp ta đánh giặc biển.
(sđd., tr. 51).
++ Ban cấp cho Hoắc Đạo Sinh (Philastre) một bộ luật để y học tập, tham khảo. Y cho luật nước ta là kĩ kưỡng và thích hợp.
(sđd., tr. 53).
++ Rắc rối giữa Phạm Phú Thứ và Nguyễn [Thượng] Phiên. Đều bị giáng.
(sđd., tr. 53 – 54).
+++ Tháng bảy âl..
++ Thượng thư Bộ Hình Trần Bình chấm thi hội có hành vi ám muội, bị giáng chức, cho làm việc chuộc tội ở Sử quán.
(sđd., tr. 57 – 58).
Đại thần Cơ mật viện – Thương bạc [Viện – Bạc]: Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường, Lê Bá Thận. Chỉ còn 3 người!
++ Bố chính sứ Bắc Ninh Hoàng Diệu: thăng thư Hình bộ hữu tham tri.
(sđd., tr. 62).
+++ Tháng tám âl..
++ Sứ bộ sang Pháp đáp lễ: tuần phủ Hà Nội Trần Hy Tăng, mang hàm Lễ bộ tả tham tri, chánh sứ; Lại bộ tả thị lang Trần Nhưọng, phó sứ; Công bộ biện lí Hoàng Văn Vận, bồi sứ. Nguyễn Hữu Độ rất được Pháp khen và yêu tin (xin lưu ý!), vua lại bổ làm tuần phủ Hà Nội!
(sđd., tr. 63 – 64).
---- (*) Gần như đồng thời, triều đình cử sứ bộ sang Trung Hoa, Pháp phản đối dữ dội (18-9-1877). Xem: Dương Kinh Quốc, “Việt Nam, những sự kiện lịch sử”, tập 1, Nxb. KHXH., 1981, tr. 181; và các tư liệu khác về thời điểm này ----
++ Hoàng Hữu Xứng: trả việc ở Viện Đô sát [để về quê cư tang].
(sđd., tr. 64).
++ Sơn phòng sứ Quảng Trị Phan Khắc Kiệm dâng sớ: Thổ dân Cam Lộ gieo neo.
(sđd., tr. 64).
++ Bùi Viện, cử nhân người Nam Định, sung chức chánh quản đốc Nha Tuần tải thuộc Bộ Hộ của Nguyễn Văn Tường.
(sđd., tr. 65).
++ Nguyễn Thành Ý, Vũ Văn Phú đem vật hạng sang Pháp đấu xảo. Pháp đã bàn với Viện Cơ mật về việc đó. Nguyễn Lập vào Gia Định thay Nguyễn Thành Ý.
(sđd., tr. 65 – 66).
+++ Tháng chín âl..
++ Du Bi Lê (Dupré) về Pháp; La Phong (Lafont) sang thay.
(sđd., tr. 67).
++ Quan Viện – Bạc được phái đi ban cấp cho Hoắc Đạo Sinh (Philastre) bộ “Ngự chế Việt sử tổng vịnh” .
(sđd., tr. 68).
++ Chánh, phó tổng tài Sử quán Trần Tiễn Thành, Lê Bá Thận bị giáng 1 cấp, lưu nhiệm.
(sđd., tr. 70).
+++ Tháng mười âl..
++ Tuần phủ Hải Dương Nguyễn Tăng Doãn: tả tham tri Bộ Lại, chánh sứ; Tôn Thất Phan: phó sứ; Hoàng Văn Vận: bồi sứ. Có sự thay đổi nhân sự sứ bộ sang Pháp như vậy. Vua dặn: Nếu có cơ hội mới bàn về chuyện lục tỉnh Nam Kỳ (lấy về lại).
(sđd., tr. 71 – 72).
++ Hồ Đăng Phong (bố chính sứ Bình Thuận): lãnh tuần phủ Thuận – Khánh, thay Trương Gia Hội (đang ốm).
(sđd., tr. 72).
+++ Tháng mười hai âl..
++ Người nhà Hoắc Đạo Sinh (Philastre) đâm chết một người tên Đá (làm thuê).
(sđd., tr. 88).
++ Tàu thủy Pháp không chịu nộp thuế, bị đắm. Quan ở Viện Cơ mật định không cho cứu hộ để cảnh cáo!
(sđd., tr. 88).

35) Tự Đức năm thứ 31, Mậu dần (1878): 55 tuổi.
+++ Tháng giêng âl..
++ Ngũ tuần đại khánh Tự Đức. Vua ban ân chiếu.
(ĐNTL.CB., tập 34, sđd., tr. 92 – 96).
++ Tướng Pháp ở Gia Định, khâm sứ ở kinh đô, lãnh sự, thống nhiếp của 3 sở thương chính đều tiến dâng phẩm vật.
(sđd., tr. 97).

XIV. THỜI VẪN TIẾP TỤC LÀM THƯỢNG THƯ BỘ HỘ, ĐẠI THẦN VIỆN CƠ MẬT – THƯƠNG BẠC, ĐẠI THẦN QUẢN LÍ SỰ VỤ NHA THƯƠNG BẠC, ĐƯỢC THĂNG THỤ HÀM HIỆP BIỆN ĐẠI HỌC SĨ

++ Trần Tiễn Thành: thực thụ Văn Minh điện đại học sĩ. Nguyễn Văn Tường: thăng thụ hiệp biện đại học sĩ… Nguyễn Tư Giản được về kinh làm việc ở Viện Hàn lâm…
(sđd., tr. 97 – 98).
++ Bình Thuận động đất 3 lần. Quan Cơ mật viện – Thương bạc theo lệ tâu xin vua tự kiểm xét về hình ngục, dân tình…
(sđd., tr. 99 …).
++ Cấp súng đạn Pháp tặng cho Hà Nội.
(sđd., tr. 103).
+++ Tháng hai âl..
++ Phủ Triệu Phong (tỉnh Quảng Trị), từ tháng 8 âl., Bính tí (1876) đến tháng 8 âl., Đinh sửu (1877), bị dịch, mất mạng 4. 326 người (chủ yếu ở Hải Lăng, Minh Chính).
(sđd., tr. 108).
++ Định lại điều ước thu thuế quan tấn 1 lần (cho các nha thương chính).
(sđd., tr. 109 – 110).
++ Định đổi quốc hiệu: Đại Hưng, Đại Hóa, nhưng rồi vẫn để như cũ: Đại Nam.
(sđd., tr. 110).
++ Cấp tiền hàng tháng cho Nha Thương chính học chữ Tây.
(sđd., tr. 110 – 111).
+++ Tháng ba âl..
++ Quan Cơ mật viện – Thương bạc tâu: Xin bảo cho Lưu Vĩnh Phúc để nghiêm cấm lính trong đoàn quân của y, vì vừa xảy ra vụ Hoàng Tài Gia suýt đâm phái binh Pháp (sinh khích biến).
(sđd., tr. 113).
++ Linh mục Lê Ấn (người Việt) ở làng Xuân Hòa (*), huyện Gio (Do) Linh, tỉnh Quảng Trị, mưu họp dân, kiện quan, nhưng thực ra chỉ là vu khống.
(sđd., tr. 114).
---- (*) Người biên soạn (Trần Xuân An) bổ sung (2003) bằng bút vào bản vi tính 2001: Xem thêm: TS. Cao Huy Thuần, “Các giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam (1957 – 1914)” (Les missionnaires et la politique colonial française au Viet Nam, 1857 – 1914), Nguyên Thuận dịch, Nxb. Hà Nội, 2003, tr. 343… ----
++ Thu thuế mỏ than Quảng Yên.
(sđd., tr. 114).
++ Lương Văn Tiến (giám đốc Hải phòng ở Hải Dương) chiêu phủ thành công dân Thanh xiêu tán ở Quảng Yên, được thăng hàm.
(sđd., tr. 115).
+++ Tháng tư âl..
++ Bố chính sứ Trà Quý Bình tâu xin cấp ruộng tế tự cho Trương Định và con trai của ông (đều là nghĩa sĩ Nam Kỳ; quê gốc: Bình Sơn, Quảng Ngãi). Cơ mật viện cho rằng người khởi nghĩa như cha con Trương Định ở Nam Kỳ rất nhiều, chờ điều nghiên về thanh tích, sẽ thi hành cho tất cả một lượt. Vua bảo nên cấp ngay, cho vợ và người trong họ tế tự.
(sđd., tr. 118).
++ Vua chuẩn y việc mở trường học chữ Tây cho Nha Thương chính Hải Dương.
(sđd., tr. 118).
++ Quan Nha Thương bạc hỏi bàn với sứ Pháp về một số thư người Pháp, người Ý xin kinh doanh, khai thác mỏ… Nhưng họ đều có vẻ thiếu thành thật, vớ vẩn…
(sđd., tr. 119 – 120).
+++ Tháng năm âl..
++ Bộ Hộ tiểu trình về phép nhiếp ảnh. Cho dựng nhà chụp ảnh cạnh Sở Thương bạc.
(sđd., tr. 125 – 126).
++ Lãnh thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường tâu xin đào sông xuyên Việt (phía Bắc kinh đô Huế). Vua đã cho Phan Sĩ Thục, Lê Đĩnh đi khảo sát; thấy trở ngại, nên đình. Tờ tâu của Nguyễn Văn Tường khá dài. Đây là một ý tưởng rất đặc sắc và phản ánh yêu cầu bức thiết (đường biển lắm hải tặc) nhưng khó thực hiện.
(sđd., tr. 126 – 128).
(xem nguyên văn trong ĐNTL.CB., sđd.).
++ Khai mỏ vàng Tĩnh Nê ở Cao Bằng.
(sđd., tr. 128).
+++ Tháng sáu âl..
++ Phạm Phú Thứ tâu xin bỏ cấm người buôn mua gạo một tháng. Không cho, vì sợ gạo thiếu, sinh ra nạn đói.
(sđd., tr. 130).
+++ Tháng bảy âl..
++ Vua đi xe ngự đến đàn chay tế chiến sĩ trận vong Nam Kỳ, Bắc Kỳ ở chùa Linh Mụ (Huế).
(sđd., tr. 135 – 136).
++ Lê Bá Thận (Bộ Lễ) bị phạt trượng, tội đồ.
(sđd., tr. 137 – 139).
Đại thần Cơ mật viện – Thương bạc chỉ còn 2 người: Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường.
+++ Tháng tám âl..
++ Sứ bộ sang Tây về (riêng Nguyễn Thành Ý đi đấu xảo còn ở lại). Nguyễn Tăng Doãn vẫn làm tả tham tri Bộ Lại, lại được sung Cơ mật viện – Thương bạc đại thần.
(sđd., tr. 145).
Đại thần Cơ mật viện – Thương bạc lúc này đã gồm 3 người: Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường và Nguyễn Tăng Doãn.
++ Phạm Thận Duật về kinh: tả phó đô ngự sử Đô sát viện.
(sđd., tr. 145 – 147).
++ Đúng ngày chính lễ ngũ tuần đại khánh của nhà vua, Tự Đức ban ân chiếu.
(sđd., tr. 150 – 156).
++ Hoàng Tá Viêm về kinh chúc thọ.
(sđd., tr. 157).
++ Đặc cách rót rượu vua dùng ban cho các hoàng thân, đại thần: Miên Định, Hoàng Tá Viêm, Lê Sỹ, Nguyễn Văn Tường.
(sđd., tr. 157).
++ Thưởng ngoại giao khâm sứ, lãnh sự Pháp.
(sđd., tr. 156 – 157).
+++ Tháng chín âl..
++ Thưởng ngoại giao giám mục, linh mục Nghệ An (chúc thọ vua ở nhà thờ Thiên Chúa giáo của họ).
(sđd., tr. 162).
++ Tướng nước Thanh Lý Dương Tài làm phản, trở thành phỉ quấy nhiễu Lạng Sơn.
(sđd., tr. 163 – 165).
+++ Tháng mười âl..
++ Vua xem nhật báo “Hương Cảng (*) tân văn” bàn về việc chấn hưng, thông thương và chống kẻ dám khinh rẻ (các khoản: 1. đóng tàu; 2. đúc súng; 3. học ngoại ngữ; 4. luyện tập quân), sai Viện Cơ mật xét nghĩ. Cơ mật viên phân tích, nhận định về tình hình và sức ì ở nước ta, đồng thời vạch kế hoạch. Tuy nhiên, Viện Cơ mật còn quá dè dặt: Quyết tâm canh tân chưa cao, do sự bao vây ngoại giao, sự “cấm vận” của Pháp và do sức ì nội tại nói trên (**). Vua cho là phải. Riêng việc học chữ và tiếng Tây thì cho thi hành ngay.
(sđd., tr. 165 – 167).
---- (*) Hồng Kông.
(**) Lưu ý: bản tâu của Cơ mật viện được chép lại, bị lược ý, thể hiện chưa rõ. Xem thêm về bản tâu xin bỏ lệnh cấm buôn đường biển, vào tháng ba, Tự Đức năm thứ 29, Bính tí (1876), trong ĐNTL.CB. tập 33, sđd., tr. 281 – 282. ----

++ Người Hoa, Người Tây, người Phổ (Đức) xin trưng thuế mỏ than. Cơ mật viện – Thương bạc: Khi đào được quặng, phải báo ngay.
(sđd., tr. 169).
++ Nguyễn Tăng Doãn: thăng thự thượng thư Bộ Lại, sung Cơ mật viện đại thần. Phạm Thận Duật: thụ thượng thư Bộ Hình, phó tổng tài Sử quán, kiêm quản Quốc tử giám đại thần.
(sđd., tr. 174).
++ Cấp đá lửa Nam – Ngãi cho việc quân.
(sđd., tr. 175 – 176).
+++ Tháng mười một âl..
++ Mưa lụt, đói kém. Biện pháp điều hòa lương thực.
(sđd., tr. 176).
++ Hoàng Diệu, Lâm Hoành, Đàm Khắc Nhượng, Đoàn Dao xin bỏ cấm tiền đồng khác kiểu để đánh thuế. Bộ Hộ của Nguyễn Văn Tường cũng bàn nghị lại và tâu lên. Trong đó có câu: “Tốn đồng, kẽm, công thợ, vật liệu của người, mà sung vào tiền hiệu thuế quan của ta, tưởng cũng hơi tiện”. Ý tưởng đó xuất phát từ nguyên tắc định mệnh giá đồng tiền: Mệnh giá = giá vật liệu (đồng, kẽm) + tiền công + tiền than củi đốt lò. Vua chuẩn y, và cho dùng cả tiền nước Thanh ở Lạng Sơn, Cao Bằng (*).
(sđd., tr. 176 – 177).
---- (*) Đại để như đồng tiền vàng trên cơ sở giá vàng thế giới ở một số nước, ở vài khu vực tiền tệ hiện nay (đồng tiền vàng EURO là một đơn cử).
Vấn đề là kiểm định chất lượng kim loại (đồng, kẽm, vàng)! Hiện nay, mệnh giá tiền vàng mới được tính như công thức trên. Ngày xưa, tính tiền đồng theo công thức ấy, dẫn đến sự bất tiện trong khi mang theo (Vì giá trị lớn phải đi đôi với khối lượng lớn. Nói cụ thể là phải gánh bằng quang thúng, chở bằng xe, khi cần sử dụng một số tiền đồng có giá trị lớn trong mua bán).
Trong những người tâu xin bỏ lệnh cấm nhân dân sử dụng tiền sềnh này, có những người yêu nước, trung nghĩa, đã trở thành anh hùng liệt sĩ trong lịch sử như Hoàng Diệu, Lâm Hoành (Hoằng)…
Xem trích đoạn nguyên văn trong ĐNTL.CB., sđd., số trang ghi trên. ----

++ Sứ bộ sang Pháp, Pháp khoản tiếp tốt; nay bố chính sứ Bình Thuận Trần Lưu Huệ đến Gia Định tặng vật phẩm đáp lễ.
(sđd., tr. 180).
++ Sứ bộ sang Xiêm: Nguyễn Hiệp (tức Nguyễn Trọng Biện), Đinh Văn Giản. Đồng thời, lại đưa Hồ Khác Hài sang Xiêm (Thái Lan) học chữ và học tiếng.
(sđd., tr. 182 – 183).
+++ Tháng mười hai âl..
++ Thu thuế mỏ sắt.
(sđd., tr. 183).
++ Vua hỏi Nguyễn Tăng Doãn, Nguyễn Thành Ý việc sang Tây.
Nguyễn Tăng Doãn tâu:
1. Pháp tăng cường quân đội, kinh tế để trả thù Phổ (Đức).
2. Pháp có bến tàu buôn bán khắp các châu (kể cả Phi, Mỹ), gồm 15 sở. Trong đó, Nam Kỳ là lớn nhất.
3. Nước Pháp đã thành nước dân chủ, có quốc hội lưỡng viện (thượng, hạ viện). Mọi vấn đề không thể quyết định ở quốc trưởng được.
4. Các nước Phương Tây đang liên kết với nhau.
Và tập tâu khác: về kĩ nghệ tàu chạy hơi nước, xe lửa, các phong tục (nhảy đầm, ngoại tình…).
Vua giáng Nguyễn Tăng Doãn về hàm cũ là tả tham tri, vẫn lãnh thượng thư; Nguyễn Thành Ý bị cách, lưu nhiệm.
(sđd., tr. 183 – 186).
Có lẽ Tự Đức bị chạm nọc do cơ chế dân chủ ở Phương Tây (riêng về lãnh vực cơ chế chính trị)!
++ Nhật báo Hương Cảng đưa tin ngoa về hậu duệ nhà Lý nước ta câu kết với giặc ở Thái [Nguyên]. Tướng Pháp ở Gia Định sợ trở ngại việc thương mại, đưa thư tỏ ý đánh giúp. Quan Nha Thương bạc viết thư đáp, rằng giặc đã trốn xa.
(sđd., tr. 187).
++ Bộ Hộ (Nguyễn Văn Tường) bàn định về Bùi Viện, Nguyễn Hữu Thục… trong sự rắc rối tiền nong thâm thủng, mặc dù xác định rằng họ có lòng đảm đương công việc. Nguyễn Trọng Hợp nhận chức thay Nguyễn Hữu Thục.
(sđd., tr. 187).
++ Phùng Tử Tài (tướng nhà Thanh) đem 26 doanh quân sang nước ta đánh giặc Lý Dương Tài (làm phản).
(sđd., tr. 189).
++ Hoắc Đạo Sinh (Philastre) dâng thư chúc nhân dịp Tết Nguyên đán nước ta.
(sđd., tr. 189 – 190).
++ Vua bàn cùng các quan thuộc Bộ Hộ của Nguyễn Văn Tường về việc các tỉnh Bình Định, Phú Yên đói kém và cách chẩn cứu. Bộ Hộ tâu đáp lời.
(sđd., tr. 190 – 191).
++ Trước đây, tổng đốc Định – Yên Nguyễn Trọng Hợp dâng tập tâu về sự thiếu hụt và nhũng tệ. Điều tra: Quan nguyên bố chính sứ Nam Định là Vũ Khoa, và Sơn Phòng sứ Nam Định là Dương Khuê, có vay mượn… Bộ Hộ của Nguyễn Văn Tường được dụ xét xử. Một số quan lại bị thi hành án.
(sđd., tr. 192).

36) Tự Đức năm thứ 32, Kỉ mão (1879): 56 tuổi.
+++ Tháng giêng âl..
++ Năm nay gặp tiết thất tuần đại khánh của Từ Dũ, vua và hoàng thân, văn võ đình thần đến cung Gia Thọ chúc mừng. Ban ân chiếu.
(ĐNTL.CB. tập 34, sđd., tr. 193 – 195).
++ Lê Bá Thận phải tội, bị giam ở lao Thừa Thiên; đến khi lâm bệnh nặng, cho về nhà; nay đã chết.
(sđd., tr. 195).
++ Thuyền buôn Pháp thương mang theo súng ống, không nộp cho quan tấn thủ (quan giữ cửa biển). Quan Cơ mật viện – Thương bạc cho là trái “hòa” ước, bàn thương thuyết với lãnh sự Pháp.
(sđd., tr. 196).
++ Tuần phủ Trị – Bình Vũ Khoa, Sơn phòng sứ Hà Nội Dương Khuê (nhà thơ) bị cách chức, cho làm việc chuộc tội. Bộ Hộ của Nguyễn Văn Tường phụng dụ, xét nghĩ (công tố viên, phải vận dụng đúng luật). Nội các đổi nghĩ (thay đổi quyết nghị), vua gia ân. Dân Quảng Trị ái mộ Vũ Khoa (người Hương Thuỷ, Thừa Thiên) kí tên vào đơn và bỏ ra 15.000 quan tiền, kêu ở Công chính đường, xin tha cho Vũ Khoa. Đình thần không cho. Vũ Khoa và Dương Khuê đều phải đi làm việc chuộc tội.
(sđd., tr. 197 – 198).
++ Phan Sĩ Thục: tuần phủ Trị – Bình.
(sđd., tr. 198).
++ Nguyễn Thành Ý xin đem học trò đã được chọn phái đi học cơ khí ở cửa biển Thu Long (Trung Hoa). Quan Cơ mật viện – Thương bạc sợ mất quan cách (thể diện quan) của Nguyễn Thành Ý. Vua so sánh với quan Tây, và cho rằng thánh nhân (Khổng, Lão) cũng làm tiểu lại, có nhục gì đâu.
(sđd., tr. 198 – 199).
+++ Tháng hai âl..
++ Tàu công nước Anh đến Hải Dương. Pháp cản Phạm Phú Thứ tặng quà, khoản đãi. Phạm Phú Thứ không nghe. Quan Cơ mật viện – Thương bạc cho rằng khoản tặng còn ít, xin chiểu lệ tặng tàu Pháp, nhưng lại hậu hĩnh hơn để bày tỏ thiện cảm với Anh, khỏi bị Pháp độc quyền (ngoại giao, thương mại, thông tin…).
(sđd., tr. 203).
+++ Tháng ba âl..
++ Chuẩn định lệ xét xử người đốc thu thuế, lãnh trưng thuế.
(sđd., tr. 209 – 210).
+++ Tháng ba nhuận âl..
++ Người Thanh muốn dẫn người Nhật Bản đến buôn bán ở các đảo Quảng Yên.
(sđd., tr. 212).
++ Vua Tự Đức khen Pham Thận Duật am hiểu, hòa nhã. Tự Đức phê phán quan khoa đạo hiểu lầm ý vua, và khẳng định là không phân biệt Nam, Bắc khi dùng người.
(sđd., tr. 212 – 213).
+++ Tháng tư âl..
++ Định lại điều lệ cấm gạo ở Bắc Kỳ (cấm xuất khẩu gạo).
(sđd., tr. 216).
++ Khuyến khích cử hiền tài, định phép thi. Tự Đức lưu ý đến sự am hiểu tình hình quốc tế và công kĩ nghệ.
(sđd., tr. 217 – 218).
++ Quan Bộ Hộ bàn về thuyền vận tải.
(sđd., tr. 220 – 221).
++ Tổng đốc Hải Dương Phạm Phú Thứ mật tâu về việc người buôn Tây, Hoa, bọn Hán gian mưu gây biến ở Bắc Kỳ. Theo tham biện Sở Thương chính (linh mục Nguyễn [Hữu] Cư): Người buôn Tây có tên là Mô Răng Đi Ni (?) đã báo cho biết như vậy. Lí do: Nước ta cấm buôn nghiêm mật, chúng sinh oán, đã chung nộp tiền mua súng ống. Nguồn tin dân gian cũng thế. Lãnh sự Pháp cũng có ý ấy. Do nghe ngóng được vậy, Phạm Phú Thứ xin bỏ cấm xuất khẩu gạo 2 hoặc 3 tháng. Vua bảo: Thương ước đã thỏa thuận; tình hình hậu duệ nhà Lê vẫn ổn; việc cấm xuất khẩu gạo là tùy tình hình sản xuất; do đó, Phạm Phú Thứ chỉ nói thác việc… Khâm phái ngự sử Dương Quán tâu hặc: Phạm Phú Thứ cho người Thanh lén mua, xuất cảng gạo; giám đốc Hải phòng Lương Văn Tiến (anh em ngoại với Phạm Phú Thứ) cậy thế chở gạo ra nước ngoài. Tự Đức chuẩn cho Lê Điều, Trần Văn Úc ra điều tra. Phạm Phú Thứ vẫn tâu báo cho Cơ mật viện về ý đồ muốn định lại thương ước, chiếm thành Hà Nội của lãnh sự Pháp Công Tăng Tinh (Constantine). Vua cho rằng Phạm Phú Thứ đọa triều đình; nếu có thật thì cũng phải làm cho ổn thỏa, đừng gây khích biến để chứng tỏ lời mình là đúng.
(sđd., tr. 221 – 223).
++ Đường quan Bộ Hộ, Bộ Binh và Nguyễn Trọng Hợp (tuần phủ Nam Định) bị giáng cấp, lưu nhiệm vì thuyền đi tuần giặc bắn, cướp.
(sđd., tr. 225).
+++ Tháng năm âl..
++ Lê Đình Tuấn: thương biện Cơ mật viện sự vụ.
(sđd., tr. 227).
++ Sứ bộ Nguyễn Hiệp sang Xiêm về, báo cáo tình hình: 1. Xiêm nghị hòa với 9 nước: Phú, Y Pha Nho (Espagnol) Phổ (Đức), Mỹ, Bút ([Bồ?] Portugal ?), Ý, Bồ (Portugal), Hà Lan… (*), nhưng nước Anh vẫn cầm trịch… Do đó, không mất đất, mất quyền (!?). 2. Về lãnh sự Pháp (Phú) ở Xiêm: không muốn cho Đại Nam giao thiệp rộng.
(sđd., tr. 233 – 235).
---- (*) Đúng ra, còn có thêm: Bỉ, Đan Mạch, Thụy Điển, Na Uy. Đến 1898: Nga (Russia). Tổng cộng: 12 nước (xem Nguyễn Văn Hồng, Vũ Dương Ninh, Võ Mai Bạch Tuyết, “Lịch sử thế giới cận đại”, tập 3, sđd., tr. 392). ----
+++ Tháng sáu âl..
++ Tướng Pháp La Phong (Lafont) về nước, Lư Mi Đa (Le Myre de Vilers) sang thay.
(sđd., tr. 236).
++ Hoắc Đạo Sinh (Philastre) về nước, Lê Na (Rheinart) sang làm khân sứ ở kinh đô Huế.
(sđd., tr. 236).
++ Bộ Binh, Bộ Công xin đúc súng. Vua bảo hoãn, đợi quan Cơ mật viện – Thương bạc nghĩ cách chọn phái người đi học phương pháp đúc mới.
(sđd., tr. 236).
++ Tôn Thất Thuyết bị bệnh, về Thanh Hóa điều trị. Có chỉ dụ, khỏi thì về kinh. Nay ông dâng sớ xin bàn việc với quan tỉnh. Vua bảo: Tôn Thất Thuyết có chứng nóng vội chưa khỏi; cứ tạm làm việc với quan tỉnh.
(sđd., tr. 236 – 237).
++ Tha thuế cho 18 xã, động ở Quảng Yên.
(sđd., tr. 237 – 238).
++ Nguyễn Hữu Độ tâu bày một số vấn đề. Vua cho là nói dễ, làm khó, chớ khoe khoang. Nguyễn Hữu Độ xin tự đương chức kính lí tuần tuyên. Vua đồng ý.
(sđd., tr. 239 – 242).
++ Xét mộ người học chữ Tây, công nghệ Tây.
(sđd., tr. 248).
+++ Tháng bảy âl..
++ “Đại Nam thực lục đệ tam kỉ” (kỉ Thiệu Trị) đã được khắc in xong.
(sđd., tr. 254).
++ Trần Tiễn Thành và Nguyễn Văn Tường tâu xin tha giảm án cách chức cho Đinh Hội (72 tuổi). Nhờ vậy, Đinh Hội chỉ bị giáng chức.
(sđd., tr. 259).
++ Trần Đình Túc (*), Nguyễn Hữu Độ bị vua trách vì tư báo cho lãnh sự Pháp không hợp quy định giữ bí mật (Hoàng Tá Viêm, Phùng Tử Tài chuyển quân; Pháp ngờ sợ, hỏi việc).
(sđd., tr. 260).
---- (*) Khảo sát cho đến cuối đời Trần Đình Túc, sẽ thấy ông là một vị đại quan mặc dù chủ hòa nhưng vẫn có lòng trung thành với triều Nguyễn và yêu nước. Trong trường hợp này, chỉ có Nguyễn Hữu Độ là kẻ đã làm tay sai cho Pháp; và bản chất của y càng bộc lộ rõ ở những năm về sau. Xin xem tiếp, “hồi sau sẽ rõ”. ----
+++ Tháng tám âl..
++ Cơ mật viện – Thương bạc được lệnh viết thư hỏi Pháp: Về âm mưu gây biến theo lời đe dọa của Mô Răng Đi Ni (?); về Kê La Đích (Kergaradec, lãnh sự ở Hà Nội) báo cáo với Phủ súy Pháp việc ta cấm xuất khẩu gạo khiến cho con buôn Tây oán hận; về nhật báo nước ngoài đưa tin Pháp đem thuyền chiến đến nước ta. Để giải quyết sự hiềm khích giữa Pháp và ta (Phạm Phú Thứ ưu đãi cho người buôn nước Thanh [Trung Hoa], khó ngặt với người buôn Tây), quan Cơ mật viện – Thương bạc xin thay Phạm Phú Thứ. Vua không chuẩn, chỉ mật dụ cảnh cáo Phạm Phú Thứ, khuyên đừng nên khích biến.
(sđd., tr. 262).
(xem lại: sđd., tr. 221 – 223).
Xin lưu ý: Viện – Bạc xin điều động Phạm Phú Thứ về triều, thay bằng Lê Điều (một người có tinh thần chống Pháp).
++ Pháp muốn đuổi Lưu Vĩnh Phúc khỏi Bảo Thắng (tỉnh Hưng Hóa). Nguyễn Hữu Độ, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Huy Kỷ, Hoàng Tá Viêm tâu, ý kiến khác nhau. Đình thần phê phán Phạm Phú Thứ, Nguyễn Hữu Độ, đặc biệt cho rằng Nguyễn Hữu Độ theo “lời của tay buôn lão luyện mưu lợi” (người buôn Pháp…). Ở thời điểm này, triều đình đã biết rõ bản chất xấu xa của Nguyễn Hữu Độ.
(sđd., tr. 263 – 265).
++ Thượng thư Bộ Lại Nguyễn Tăng Doãn (người Quảng Trị) chết.
(sđd., tr. 267).
+++ Tháng chín âl..
++ Thượng thư Bộ Lễ Đỗ Đệ, hữu tham tri Bộ Lại Hoàng Diệu sung làm chánh phó sứ toàn quyền bàn định thương ước với sứ thần Y Pha Nho Đôn Man Cô Ra Đô Ni (Ordonnez [?]).
(sđd., tr. 271).
++ Quân ta và quân Thanh bắt sống được tên tướng làm phản Lý Dương Tài, giải hắn về Trung Hoa.
(sđd., tr. 271 – 272).
++ Miễn giảm thuế cho hạ du Bắc Ninh.
(sđd., tr. 273).
+++ Tháng mười một âl..
++ Quan ở Nội các là nhóm Bùi Ân Niên tâu: Xin nghiêm cấm tiền giả của người buôn nước Thanh (Trung Hoa). Đình thần duyệt bàn, đề xuất biện pháp khiến cho con buôn người Hoa tự bỏ vì thấy không lợi nếu đúc tiền giả đem sang, và dùng cả biện pháp hình luật.
(sđd., tr. 279 – 280).
+++ Tháng mười hai âl..
++ Phạm Thận Duật có tang, ở quê, nay về kinh, tâu về việc trồng trọt cứu đói bằng các loại rau củ. Bộ Hộ của Nguyễn Văn Tường thông báo cho các tỉnh.
(sđd., tr. 284 – 285).
++ Thương ước Đại Nam – Tây Ban Nha (Y), gồm 12 khoản.
(sđd., tr. 290 – 295).
++ Tổng đốc Hải – Yên Lê Điều xin để Phạm Phú Thứ ở lại Hải Dương vài tháng để giúp ông am hiểu công việc.
(sđd., tr. 296).

37) Tự Đức năm thứ 33, Canh thìn (1880): 57 tuổi.
+++ Tháng giêng âl..
++ Lê Na (Rheinart) vào triều làm lễ chúc mừng.
(ĐNTL.CB., tập 34, sđd., tr. 297).
++ Tôn Thất Tĩnh: hữu tham tri Bộ Hộ.
(sđd., tr. 297).
++ Giảm thuế cho Quảng Nam.
(sđd., tr. 298).
++ Ban bút nghiên cho Lê Na (Rheinart).
(sđd., tr. 298).
++ Bộ Hộ (Nguyễn Văn Tường) bàn về việc xin định lại lệ trừng phạt về sổ sách chi tiêu ẩn lậu số mục.
(sđd., tr. 303).
+++ Tháng hai âl..
++ Định lệ nhất thiết nghiêm cấm tiền dị dạng.
(sđd., tr. 304).
++ Thái tử thiếu bảo, tổng đốc Nghệ – Tĩnh Nguyễn Chính: thượng thư Bộ Lại, Cơ mật viện đại thần
(sđd., tr. 306).
Đại thần Cơ mật viện – Thương bạc: Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Chính và Phạm Thận Duật (?) (*).
---- (*) Theo một số tư liệu, Phạm Thận Duật đã vào Cơ mật viện – Thương bạc từ năm này. ----
++ Khâm sứ Pháp Lê Na (Rheinart) xin đặt Nha Điện báo Bắc Kỳ. Viên ngoại lang Bộ Công Lê Văn Xuân cùng phái viên các tỉnh khám xét, làm việc.
(sđd., tr. 327).
++ Vua trách Phạm Phú Thứ nghe lời Pháp xin cho khai mỏ (trái “hòa” ước, vì lên thượng du, đến các tỉnh) và xin bỏ cấm buôn gạo.
(sđd., tr. 328).
++ 7 huyện thượng du Hải Dương đói kém.
(sđd., tr. 328).
++ Hà Nội đói. Nghệ An, Sơn Tây, Bắc Ninh, Nam Định, Hưng Yên … có nhiều người chết đói.
(sđd., tr. 329 – 330).
+++ Tháng ba âl..
++ Thi hội: đầu đề về chia đều thuế ruộng ở Bắc Kỳ.
(sđd., tr. 330).
++ Pháp bắt được giặc biển người Hoa.
(sđd., tr. 331).
++ Phan Đình Bình (bố chính sứ Bắc Ninh) gần đây dâng sớ tâu về tình hình chấp hành thuế ruộng chia đều (ruộng công, ruộng tư bằng nhau) và về khoản thu thêm thuế ruộng tư, mỗi hộc thêm một bát cho nghĩa thương (quỹ cứu đói). Tập tâu có nhiều điểm tỏ ra bất đồng với chủ trương. Đến nay, quan Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường tâu: “Ruộng công là của dân, mà thuế so ra có phần nặng; ruộng tư phần nhiều do bọn cường hào gian ác chiếm riêng, mà thuế so ra có phần nhẹ” ; nay đổi ra thuế chia đều là muốn cho dân nghèo khỏi bị bọn cường hào áp chế và để thống nhất trong cả nước; còn phần thuế ruộng tư thu thêm là để làm quỹ cứu đói; chỉ có bọn đàn anh giàu có ở Bắc Ninh kêu ca mà thôi! (*).
(sđd., tr. 332 – 333).
Đây là một nét tích cực lớn của thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường. Xin xem nguyên văn ĐNTL.CB., sđd., số trang đã ghi.
++ Viết thư cảm ơn lãnh sự ở Gia Định về việc đưa giúp dân Quảng Ngãi bị giạt vào đảo Côn Lôn trở về.
(sđd., tr. 337).
++ Đinh Hội: phó đề đốc quân thứ Ngãi – Định.
(sđd., tr. 337).
+++ Tháng tư âl..
++ Thu quyển thi hội, chuẩn bị thi đình. Vua Tự Đức bảo: “Chủ khảo cốt phải được người [giỏi, công bằng – ct.], thì học trò mới phục” (nguyên văn), nên chuẩn lấy Nguyễn Văn Tường làm chủ khảo.
(sđd., tr. 338, tr. 340).
++ Phạm Ý chết.
(sđd., tr. 338).
++ Hà Nội đói.
(sđd., tr. 339).
++ Bộ Hộ, Bộ Binh, Bộ Công nhận xét thành lũy tỉnh Lạng Sơn quá rộng, khó giữ.
(sđd., tr. 339).
++ Tự Đức bảo Bộ Hộ cần xem xét: bọn lãnh trưng thu thuế quá đáng, không khỏi hại dân.
(sđd., tr. 339 – 340).
++ Thự hiệp biện đại học sĩ, lãnh thượng thư Bộ Hộ, Kì Vĩ bá Nguyễn Văn Tường và tả tham tri Bộ Hình Lê Đình Tuấn sung chức đọc quyển; Bùi Văn Quế, Hà Văn Quan: duyệt quyển. Đây là kì thi điện (thi đình). Đỗ tiến sĩ: Nguyễn Đình Dương…; đồng tiến sĩ: … Hoàng Văn Hòe…
(sđd., tr. 340).
++ Lê Na (Rheinart) (khâm sứ Pháp tại kinh đô) không được thăm xét mỏ than ở Quảng Nam, bèn giả thác ra việc mật, tâu thẳng lên vua, ngầm gièm quan Viện – Bạc đại thần ăn của lót trả ơn của người Hoa, ngờ người Pháp có mưu đồ gì khác… Quan Viện – Bạc xin đưa thư cho Phủ súy Pháp và gửi kèm bản sao thư của Lê Na (Rheinart) gồm các lời vu khống kể trên. Vua Tự Đức cho rằng: Lê Na (Rheinart) nói không phải (nói sai); chủ súy Pháp và Lê Na (Rheinart) cũng đều bênh nhau; vậy ta nên nhịn sự nhỏ để khỏi lỡ việc lớn, mới là khéo xử; nhưng cần bí mật thông tư cho Nguyễn Thành Ý để NguyễnThành Ý nói cho chủ súy y biết.
(sđd., tr. 341).
++ Pháp vẫn cố tình ngăn trở nước ta thông sứ hữu nghị với Xiêm. Quan Cơ mật viện – Thương bạc đem khoản 3 “hòa” ước ra để đấu tranh. Pháp lẫn bịa việc, ngăn trở!
(sđd., tr. 341 – 342).
+++ Tháng năm âl..
++ Lãnh sự Pháp ở Hải Dương tâu về việc lạm thu thuế gỗ do người Hoa lãnh trưng.
(sđd., tr. 346).
++ Tổng đốc Hải – Yên Lê Điều tâu: xin thuê người Tây làm nhân viên dẫn thủy; ông lại vẽ bản đồ đường sông và lòng sông dâng lên (giao Viện Cơ mật giữ).
(sđd., tr. 346 – 347).
++ Tướng súy Pháp ở Gia Định Ngu My Đa (?) về Pháp, Lê My (Le Myre de Vilers) sang thay.
(sđd., tr. 347).
++ Trần Đình Túc về hưu.
(sđd., tr. 349).
+++ Tháng sáu âl..
++ Đường cảng ở sông Vĩnh Định thuộc Hải Lăng, Quảng Trị (đoạn chảy qua Đa Nghi, Hội Yên, Đan Quế, Kim Long, Kim Giao) bị bồi nông. Khơi vét đã xong.
(sđd., tr. 351).
++ Tha giảm thuế năm nay và năm trước cho 5 châu tỉnh Hưng Hóa.
(sđd., tr. 351 – 352).
++ Đỗ Đệ, Hồ Trọng Đỉnh (Liễn [?]) giao thương ước với sứ thần Y Pha Nho (Espagnol).
(sđd., tr. 352).
++ Tướng súy Pháp cung tiến cá sấu.
(sđd., tr. 352).
+++ Tháng bảy âl..
++ Định rõ lại lệ cấm tiền dị dạng (tiền sềnh).
(sđd., tr. 355 – 356).
++ Lãnh sự Pháp xin mua gạo xuất khẩu. Quan Viện – Bạc là nhóm Trần Tiễn Thành (*) xin bỏ cấm 2 tháng ở 4 tỉnh không mất mùa (Ninh Bình, Hà Nội, Nam Định, Hải Dương) như một cách quyền nghi! Vua cho.
(sđd., tr. 356).
---- (*) Quốc sử quán triều Nguyễn xác định rõ danh tính Trần Tiễn Thành (đứng tên ở tập tâu) trong sự việc cụ thể này. Cơ số bình thường ở Viện – Bạc gồm 4 đại thần và 12 tham biện, tư vụ… ----
++ Bộ Hộ của Nguyễn Văn Tường chước định điều lệ thu thuế quan.
(sđd., tr. 360 – 361).
++ Quan Viện – Bạc nghị xử thuộc viên của điển nông sứ Phan Trung: 2 thuộc viên này tự tiện giết người.
(sđd., tr. 363 – 364).
Được giao nhiêm vụ công tố viên, quan Viện – Bạc phải vận dụng đúng luật (tội danh, mức án). Quyền đổi nghĩ (thay đổi quyết nghị), vua có thể giao cho đình thần. Quyền ân giảm luôn luôn thuộc về nhà vua.
+++ Tháng tám âl..
++ Phạm Phú Thứ và Lê Tiến Thông về kinh đợi án, xin vào bái yết. Vua không cho và quở trách rất nặng: Phạm Phú Thứ thiên vị, kiêu ngạo, không chịu sửa đổi; Lê Tiến Thông ỷ vào người bà con bên ngoại (Phạm Phú Thứ)…
(sđd., tr. 364 – 365).
+++ Tháng chín âl..
++ Vũ Trọng Bình vào kinh, yết kiến. Vua hỏi về Bắc Kỳ. Ông tâu đáp: “Lòng người đều muốn được yên, nhưng cho lòng người có thể tin cậy, tôi là người ngu cũng chưa dám chắc”
(sđd., tr. 368 – 369).
++ Nguyễn Văn Tường bị lời gièm, xin trả việc ở Bộ Hộ. Người tâu (Tôn Thất Thuyết) cho rằng: Nguyễn Văn Tường tâu xin bỏ cấm tiền dị dạng, để cùng bọn người buôn tiền ấy chia lợi, mọt nước hại dân; dân kinh đô đồn rầm lên. Vua Tự Đức dụ: Tôn Thất Thuyết ít học, không thông, nóng nảy, nói càn, không đáng kể đến; lời đồn ở kinh đô cũng không có căn cứ…; không thể dẹp lời gièm ở đời, xưa nay đều thế, nên có câu: “Chống rét không gì bằng cách mặc hai lần áo” ; dẹp lời gièm không gì bằng cách luôn luôn tu tỉnh. Vua không cho từ chức, đổi chức.
(sđd., tr. 370).
(xem lại: sđd., tr. 176 – 177).
Hoàng Diệu, Lâm Hoành (Hoằng), Đàm Khắc Nhượng, Đoàn Dao là 4 người khởi đầu việc tâu xin bỏ lệnh cấm sử dụng tiền sềnh (tiền dị dạng). Chẳng lẽ Hoàng Diệu, Lâm Hoành… là đầu mối ăn của đút lót của bọn người Hoa buôn tiền sềnh? Và đã bao nhiêu lần đình nghị (cả triều đình bàn luận) thử bỏ lệnh ấy và lại cấm lệnh ấy!
Thật ra, chính nhân dân Huế bị bọn “giặc miệng giáo dân” lừa bịp (De Champeaux quyết đập tan tành uy tín Nguyễn Văn Tường); Tôn Thất Thuyết mới từ Thanh Hóa vào, cũng vô tình mắc mưu ấy.

++ Tự Đức bảo đình thần: Trần Tiễn Thành già yếu; do đó đọng việc ở Bộ Binh…
(sđd., tr. 370 – 371).
++ Hồ Trọng Đỉnh: tả tham tri Bộ Hộ, kiêm coi Viện Đô sát.
(sđd., tr. 371).
+++ Tháng mười một âl..
++ Tự Đức sai quan tỉnh Hải Dương thưởng cấp phái viên Pháp (ngoại giao!).
(sđd., tr. 383).
++ Hiệp biện đại học sĩ Nguyễn Văn Tường trước đây nghe viên ngự y Đỗ Văn Tuyển nói về mạch vua: Tì kém, cần “thiên sinh ô truật”. Vì vậy, khi gửi mua thuốc cho mình, ông gửi mua cùng loại ấy để đồng thời tiến lên vua. Vua cho là vua tôi cùng bệnh, càng thương nhau.
(sđd., tr. 388).

XV. THỜI TIẾP TỤC LÀM THƯỢNG THƯ BỘ HỘ, ĐẠI THẦN VIỆN CƠ MẬT – THƯƠNG BẠC, ĐẠI THẦN QUẢN LÍ SỰ VỤ NHA THƯƠNG BẠC, ĐẠI THẦN KIÊM QUẢN CỤC THUYỀN CHÍNH (VẪN HIỆP BIỆN ĐẠI HỌC SĨ, KÌ VĨ BÁ)

++ Theo lời tâu xin của Bộ Hộ, đình thần đã bàn, nay bắt đầu lập ra Cục Thuyền chính để đảm đương việc phát triển, điều hòa kinh tế. Nhiệm vụ chủ yếu là quản lí, điều hành các thuyền trong nước. Chu Đình Kế, Lê Tiến Đức đảm nhiệm. Hai ông tâu bày về sự khởi đầu khó khăn. Do đó, Nguyễn Văn Tường sung làm kiêm quản đại thần.
(sđd., tr. 388 – 393).
++ Lãnh đề đốc quân thứ Tuyên Quang Trần Mân (trước đây cùng Nguyễn Văn Tường đánh thắng giặc ở Thanh Dã, Thái Nguyên) vừa mới chết.
(sđd., tr. 394 – 395).
++ Vũ Trọng Bình hưởng ứng việc lập Cục Thuyền chính, nên được đổi bổ làm tổng đốc [Nam] Định – [Hưng] Yên, kiêm trông coi việc tuần tiễu, vận tải ở phía Bắc.
(sđd., tr. 395).
++ Bộ Hộ của Nguyễn Văn Tường lo việc thu mua bạc đĩnh, bạc lạng, bạc đồng và có biện pháp khuyến khích nộp thuế lãnh trưng bằng bạc để chi dùng cho việc quân ở biên giới phía Bắc.
(sđd., tr. 396).
+++ Tháng mười hai âl..
++ Khởi công làm thêm nhà lợp ngói ở của biển Thuận An (Thừa Thiên), theo lời tâu xin của quan ở Nha Thuyền chính.
(sđd., tr. 404 – 405).
++ Bộ Hộ của Nguyễn Văn Tường dâng sổ kế toán về đinh điền, tiền thóc, vàng bạc trọn năm.
(sđd., tr. 406).

38) Tự Đức năm thứ 34, Tân tị (1881): 58 tuổi.
+++ Tháng giêng âl..
++ Tạm thuê thuyền nước Thanh ra Bắc tải gạo.
(ĐNTL.CB., tập 35, sđd., tr. 5).

XVI. THỜI THÔI GIỮ CHỨC ĐẠI THẦN QUẢN LÍ SỰ VỤ NHA THƯƠNG BẠC; VẪN ĐẢM NHIỆM VÀ KIÊM QUẢN CÁC CHỨC VỤ CŨ: THƯỢNG THƯ BỘ HỘ, ĐẠI THẦN VIỆN CƠ MẬT – THƯƠNG BẠC, ĐẠI THẦN KIÊM QUẢN CỤC THUYỀN CHÍNH (VẪN VỚI HÀM HIỆP BIỆN ĐẠI HỌC SĨ, TƯỚC HIỆU KÌ VĨ BÁ)

++ Hiệp biện đại học sĩ Nguyễn Văn Tường thôi làm quản lí Thương bạc sự vụ. Bùi Ân Niên (Bùi Dị) thay thế.
(sđd., tr. 6).
---- (*) Có lẽ cũng nên trích dẫn một đoạn báo cáo của De Champeaux gửi Phủ súy Pháp tại Gia Định: “Hôm qua tôi đã tiếp kiến quan Thương bạc. Ông đến báo cho tôi biết là ông đã từ chức thượng thư Ngoại giao… Tôi không ngờ việc vận động nhỏ của tôi chống thượng thư đó lại có kết quả nhanh đến thế… Vì thấy rằng không thể mở rộng các mối quan hệ chính trị nếu cứ phải giao thiệp với quan Thương bạc mãi, tôi đã nghĩ phải buộc ông ta từ chức và [buộc] thay ông ta bằng một người ít chống đối ảnh hưởng của ta hơn… Quan Thương bạc vẫn còn là thượng thư Bộ Hộ và thứ trưởng Viện Cơ mật. Với tư cách sau, ông vẫn còn có thể chống đối chúng ta. Muốn thoát nạn, ta còn phải đập ông tan tành cả ở phía ấy” (De Champeaux, gửi thống đốc Nam Kì, từ Huế, 06.02.1881 [mùng tám Tết Nguyên đán Tân tị], AOM. Aix, Amiraux 12923, dẫn theo Yoshiharu Tsuboi, NĐNĐDVP. & TH., UB. KHXH.TU. Tp. HCM. xb., 1993, tr. 270). Xin khảo chứng, đối chiếu với bài dụ của Tự Đức, ngày 19.5 âl., TĐ. 34 [1881] (trích từ: Thơ văn Tự Đức, tập II, “Ngự chế văn tam tập”, bài “Đuổi viên hành nhân Nguyễn Hoằng” (linh mục), Nxb. Thuận Hóa, 1996, tr. 176 – 177).
Tuy vậy, với chức năng Cơ mật viện đại thần, gọi đầy đủ từ ngữ là đại thần Viện Cơ mật – Thương bạc hay gọi tắt là quan Viện – Bạc (một nhóm người, thường là tứ trụ triều đình), Nguyễn Văn Tường vẫn tiếp tục góp phần chỉ đạo về công tác đối ngoại (xem: ĐNTL.CB. ,tập 35, sđd., tr. 39). ----

++ Nhờ Pháp thử nghiệm quặng và than mỏ. Tự Đức bảo quan Cơ mật viện – Thương bạc: “Mọi việc mượn [nhờ] người [Pháp], tóm lại như giấc mơ mộng, không có kì nào được nên việc” (nguyên văn); phải tự trù tính làm việc.
(sđd., tr. 6).

Tạm hết PHẦN 1 của CHƯƠNG SÁU.
Xin xem tiếp PHẦN 2 của chương sáu này
ở tệp 6.


Xin lưu ý: Trong cuốn sách này, người biên soạn (Trần Xuân An) có sử dụng một số từ ngữ khá cũ, theo bản dịch của Viện Sử học. Chắc hẳn Tổ Phiên dịch VSH. có dụng ý gợi lại hơi hướm ngôn ngữ Việt thế kỉ XIX. Người biên soạn cũng học tập theo tinh thần ấy (có nhiều từ ngữ phải chua thêm). Tuy nhiên, về khía cạnh trình bày, tôi cố gắng thực hiện thật sáng rõ, rạch ròi từng đề mục, kể cả loại tiểu mục, tránh nhược điểm trình bày kiểu “hủ nút” ở bản in (nhà xuất bản KHXH.) thời thập niên 60, 70 / XX… (Phải chăng có dụng ý đối với ĐNTL.CB., một bộ sách mà một số “sử gia Đàng Ngoài, maoism” có thế lực xếp vào loại “phổ biến hạn chế” ?)
Người biên soạn kính mong được sự phê bình, góp ý, chỉ bảo của người đọc.
TXA.

Việt Nam, TP. HCM.,
Thứ hai (thứ ba cũ), chiều ngày 07-02 HB6 ( 2006 )
[ mùng 10 tháng giêng, Bính tuất HB6 ]: xếp chữ xong phần 1 chương sáu.
Trần Xuân An.

0 Comments:

Post a Comment

<< Home